Featured 1

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 2

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 3

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 4

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 5

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

down

Showing posts with label Bệnh Tim. Show all posts
Showing posts with label Bệnh Tim. Show all posts

9.10.2008

Bệnh nhân tim mạch nên cẩn thận với thời tiết lạnh


Nhiệt độ môi trường thấp có thể gây nguy hiểm cho người mắc bệnh tim. Họ rất dễ bị hạ thân nhiệt do không có khả năng tạo đủ năng lượng để duy trì nhiệt độ bên trong cơ thể. Điều này có thể dẫn tới tử vong, chủ yếu là do suy tim.

Theo Hội Tim mạch Mỹ, bệnh nhân nên tự bảo vệ mình bằng cách: mặc nhiều lớp áo quần để khí ấm không bị thoát ra ngoài, đội mũ hoặc quàng khăn để khỏi mất nhiệt qua đầu, mang găng và đi ủng để giữ ấm chân tay. Ngoài ra, họ cũng nên tránh dùng bia rượu vì các đồ uống này gây giãn mạch máu nhỏ ở da, làm thất thoát nhiệt từ những bộ phận quan trọng của cơ thể. Một số yếu tố khác như gió, tuyết và mưa cũng có thể dẫn tới hạ thân nhiệt. Khi này, người bệnh có các biểu hiện: giảm khả năng phối hợp động tác, phản ứng chậm chạp, run rẩy, buồn ngủ hoặc lú lẫn...

Nhiệt độ thấp kết hợp với việc đi bộ trên tuyết dầy và ẩm có thể gây áp lực cho tim. Một số nghiên cứu cho thấy, tiết trời mùa đông khắc nghiệt làm tăng nguy cơ bị cơn đau tim.

(Theo HealthScout)

9.08.2008

Suy tim do rượu



Bên cạnh các nguyên nhân gây bệnh tim mạch như béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu... thì thiếu vitamin B1 và nhiễm độc ethanol trong rượu cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy tim và các bệnh lý tim mạch khác. Trong điều kiện hiện nay khi đời sống kinh tế được cải thiện, thì đối tượng mắc chính lại là những người nghiện rượu, phụ thuộc rượu.


Bệnh từ thói quen có hại

Không hiếm những bệnh nhân phải nhập viện trong tình trạng suy tim kèm theo các cơn sảng rượu. Đó là những người có thời gian uống rượu lâu, uống nhiều và đã rơi vào tình trạng phụ thuộc rượu. Hậu quả của nhiều năm uống rượu đang tàn phá sức khỏe của người bệnh. Sự thiếu hụt vitamin B1 và nhiễm độc ethanol trong rượu nhiều năm ở người nghiện rượu sẽ gây ra nhiều bệnh khác nhau trong đó có bệnh về tim mạch mà cụ thể là tình trạng suy tim và nhiều bệnh lý tim mạch nguy hiểm khác. Các bệnh tim mạch này đều có tỷ lệ tử vong cao nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Suy tim do thiếu vitamin B1 thường gặp ở những người có chế độ dinh dưỡng kém. Đó là những thủy thủ có cuộc sống lênh đênh nhiều ngày trên biển, chế độ ăn nghèo nàn không đủ vitamin B1 cung cấp cho cơ thể. Bệnh còn gặp ở những nơi có đời sống khó khăn, ăn gạo để lâu ngày không còn chất dinh dưỡng. Trước đây hay gặp bệnh nhân suy tim nhập viện do thiếu vitamin B1, nhưng hiện nay rất ít vì đời sống đã được cải thiện, thì tình trạng này chỉ gặp ở những người nghiện rượu.


Hậu quả trên hệ tim mạch

Những liều vừa phải của rượu có thể có cả tác dụng có hại lẫn có lợi đối với những người có tình trạng tim mạch bình thường và không dùng một thứ thuốc nào khác. Ethanol làm giảm sự co bóp của cơ tim và gây giãn mạch ngoại vi, hậu quả là làm giảm nhẹ huyết áp do vậy cơ thể phải bù trừ bằng cách tăng nhịp tim cũng như hiệu suất tim phải tăng bù. Mức tiêu thụ ôxy của cơ tim do tập thể dục sẽ cao hơn sau khi uống rượu. Uống tối đa 1-2 cữ rượu mỗi ngày trong một khoảng thời gian dài có thể làm giảm nguy cơ tử vong do tim mạch, có thể là do tăng cholesterol có tỷ trọng cao (HDL-C) hoặc những thay đổi trong các cơ chế đông máu.

Kết quả, uống nhiều rượu là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng huyết áp từ nhẹ đến vừa, tuy nhiên huyết áp sẽ trở về bình thường trong vòng vài tuần sau khi ngừng uống rượu. Nghiện rượu nặng mạn tính có thể gây bệnh cơ tim với những triệu chứng như loạn nhịp tim, giãn các buồng tim, giảm sức co bóp cơ tim và cuối cùng là suy tim. Có một sự liên quan giữa những biến chứng mạch máu não và uống rượu, nhất là trong vòng 24 giờ sau khi uống nhiều rượu. Những rối loạn nhịp nhĩ hay nhịp thất, nhất là nhịp nhanh kịch phát cũng có thể xảy ra sau khi uống nhiều rượu ở những người bình thường - đó là một hội chứng được gọi là hội chứng “tim ngày nghỉ”.

Thiếu vitamin B1 làm người bệnh mệt mỏi, gầy sút, khó thở, phù, tím tái, giảm khả năng gắng sức... dần dần dẫn đến suy tim. Đây là giai đoạn quả tim không còn đủ khả năng bơm máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Khi tim bị suy, khả năng co bóp của cơ tim bị suy giảm khiến lượng máu cung cấp cho các cơ quan trong cơ thể không đầy đủ. Từ đó sẽ dẫn đến ứ máu ở phổi và ứ dịch ở các mô trong cơ thể. Tưới máu cho thận cũng bị giảm đi, làm thận giảm khả năng bài tiết muối, gây giữ nước và dẫn đến phù rồi bị suy thận. Tương tự như ở phổi, gan cũng bị ứ máu, do vậy khả năng loại trừ chất độc cho cơ thể cũng bị giảm đi, đồng thời giảm việc tạo ra những protein cần thiết... Theo thời gian, sự suy giảm sẽ biểu hiện ở toàn bộ cơ thể. Ngoài nguyên nhân do thiếu vitamin B1, suy tim còn là hậu quả của nhiều bệnh lý tim mạch khác như xơ vữa động mạch vành, rối loạn nhịp tim, viêm cơ tim, tăng huyết áp, các bệnh van tim...

Viêm cơ tim cấp có tỷ lệ tử vong rất cao, những bệnh nhân vào viện thường bị khó thở, nhịp tim nhanh, huyết áp bình thường hoặc giảm, men tim tăng rất cao, phù chân, gan to... Biến chứng loạn nhịp tim là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất, đặc biệt là nhịp nhanh thất và blốc nhĩ thất cấp 3.

Thay đổi lối sống là cách phòng bệnh quan trọng

Điều trị bệnh bằng chế độ dinh dưỡng tốt hơn và bổ sung lượng vitamin B1 mà cơ thể bị thiếu, đồng thời điều trị những yếu tố khác như loạn nhịp, huyết áp... Nếu bệnh nhân bị viêm cơ tim cấp mà có rối loạn nhịp tim, suy tim nặng, suy hô hấp thì rất khó cứu chữa. Sau điều trị viêm cơ tim cấp bệnh có thể khỏi hẳn, nhưng đôi khi có thể trở thành bệnh tim mạn tính (suy tim).

Đối với bệnh tim do thiếu vitamin B1, cần chú ý bổ sung vitamin B1 cho cơ thể thông qua chế độ ăn hằng ngày, không nên ăn gạo để lâu ngày. Phụ nữ, trẻ em, đặc biệt là những người sống trong điều kiện khó khăn như thủy thủ nên uống vitamin B1 dự phòng. Đây là thuốc rất an toàn, nếu thừa sẽ thải qua đường tiểu mà không gây ngộ độc hay có ảnh hưởng gì xấu đến sức khỏe. Quan trọng nhất đối với người nghiện rượu là thay đổi lối sống, không nên uống nhiều rượu, có chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh.

Theo SK&ĐS

8.27.2008

Tin VN mới quan trọng : giới thiệu trang web về bệnh huyết khối do xơ vữa động mạch


Nếu như những chứng bệnh tim mạch nguy hiểm như nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não (hay còn gọi là đột quỵ) đã được không ít người biết đến, thì huyết khối do xơ vữa động mạch, nguyên nhân chính của những căn bệnh trên lại chưa được hiểu biết sâu rộng trong cộng đồng. Nằm trong chương trình chăm sóc sức khỏe tim mạch của Hội Tim mạch học TP Hồ Chí Minh, trang web thông tin chuyên đề www.benhhuyetkhoi.com đã ra đời và mới đây được nâng cấp với những chuyên mục mới rất bổ ích nhằm cung cấp những kiến thức nhiều mặt về căn bệnh nguy hiểm này.

Thường xuất hiện từ tuổi trung niên, huyết khối do xơ vữa động mạch gây ra chủ yếu do những thói quen xấu của xã hội hiện đại như uống rượu, hút thuốc, lười vận động, ăn uống nhiều chất béo, áp lực công việc... Xơ vữa động mạch được hình thành bởi sự tích tụ chất béo trong thành động mạch. Theo thời gian, các mảng xơ vữa lớn dần lên, gây chít hẹp động mạch, hoặc đôi khi vỡ ra tạo thành các cục máu đông (huyết khối) làm tắc động mạch, ngăn máu tới những cơ quan quan trọng của cơ thể như tim, não hay các chi, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...

Ước tính đến năm 2020, huyết khối do xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Theo thống kê ở Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 16 triệu người bị nhồi máu cơ tim, 6 triệu người bị đột quỵ và 8 triệu người bị động mạch ngoại biên. Ở Việt Nam, số ca nhập viện do nhồi máu cơ tim và đột quỵ đang ngày càng gia tăng một cách đáng lo ngại.

Để tránh khỏi "cái chết bất ngờ" gây ra bởi huyết khối do xơ vữa động mạch, bệnh nhân và người thân nên có những kiến thức cơ bản về bệnh. Trang web www.benhhuyetkhoi.com với giao diện và nội dung hoàn toàn mới, giới thiệu những thông tin đầy đủ và súc tích nhất về bệnh cũng như những tin tức liên quan. Đặc biệt, ở mục video clip, cộng đồng sẽ được xem trực tiếp các buổi tọa đàm chuyên sâu về huyết khối do xơ vữa động mạch thực hiện bởi các bác sĩ đầu ngành tim mạch Việt Nam. Người đọc có quan tâm cũng có thể gửi câu hỏi trực tiếp qua e-mail tới các bác sĩ thuộc Hội Tim mạch học TP.HCM để được tư vấn. Để kết nối với cộng đồng có cùng mối quan tâm về sức khỏe, bệnh lý, trang web cũng mở ra một diễn đàn về các chứng bệnh tim mạch để mọi người cùng trao đổi với những cá nhân khác có chung mối quan tâm hoặc chia sẻ những kinh nghiệm của mình về việc phòng chống bệnh cũng như chăm sóc sức khỏe tim mạch cho bản thân hoặc người thân trong gia đình. Người có nhu cầu tư vấn trực tiếp có thể liên hệ với số điện thoại: (08) - 8203969 trong giờ hành chính hoặc gọi điện tới hộp thư thoại 24h - 19001783.

Với những nỗ lực này, Hội Tim mạch học TP.HCM đang cố gắng từng bước phổ biến sâu rộng đến mọi người về căn bệnh huyết khối do xơ vữa động mạch, từ đó nhắm đến việc làm giảm tỷ lệ tử vong cũng như những biến chứng nguy hiểm của bệnh trong cộng đồng.

Theo HỘI TIM MẠCH HỌC TP.HCM

8.25.2008

Viêm lợi ảnh hưởng tới hệ tim mạch



Viêm lợi là một loại bệnh nhiễm trùng với hậu quả nhìn thấy là tình trạng mất răng. Tuy nhiên, trên thực tế, bệnh viêm lợi liên quan mật thiết với sự suy giảm của hệ tim mạch.

Các chuyên gia ĐH London (UCL) và ĐH Connecticut đã theo dõi 120 bệnh nhân trong độ tuổi trung niên bị bệnh viêm lợi và chưa từng bị tiền sử các bệnh tim mạch trước đó. Những người này đều đã từng tự điều trị bệnh viêm lợi tại nhà, hoặc tới các trung tâm nha khoa để lấy cao răng hoặc nhổ những răng không thể cứu vãn.

Khi bắt đầu điều trị viêm lợi, các tình nguyện viên được làm các xét nghiệm máu và phát hiện thấy một số loại vi khuẩn xâm nhập hệ mạch gây viêm nhiễm cho các mạch máu và động mạch chính. Tuy nhiên, sau 6 tháng điều trị tích cực, bệnh viêm lợi được chữa khỏi hoàn toàn và các xét nghiệm máu cho thấy các chức năng của hệ mạch cũng được cải thiện rất rõ rệt.


Các nhà khoa học Mỹ và Anh cho biết phát hiện của họ giúp ngăn ngừa chứng nhồi máu cơ tim và đột quỵ và góp phần làm giảm tỉ lệ người mắc các bệnh tim mạch đáng kể bởi có khoảng 40% người trưởng thành trên toàn thế giới bị bệnh viêm lợi hành hạ.

Quỹ Tim mạch Anh xác nhận: nghiên cứu này đã chỉ ra rất rõ rằng chăm sóc răng miệng tốt có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe toàn cục hơn như phòng ngừa được bệnh đau răng. Ngoài ra khi bị viêm, vi trùng có thể xâm nhập vào máu và phản ứng tự nhiên của cơ thể với các triệu chứng sưng, viêm nhiễm, thương tổn sẽ ảnh hưởng tới hệ mạch, một trong những nguyên nhân dẫn tới đột quỵ, nhồi máu cơ tim.

GS Peter Weissberg, Giám đốc Quỹ Tim mạch Anh khẳng định: “Nghiên cứu rất giá trị này đã cung cấp những bằng chứng khoa học về mối liên quan giữa sức khỏe răng miệng và hoạt động của hệ mạch”.

Theo BBC

8.11.2008

Đau Tim, Tức Ngực


Trong suốt cuộc đời, thế nào chúng ta cũng có lúc ôm ngực kêu đau. Có người thì hơi đau một chút đã hoảng hốt la làng là đang bị cơn-đau-tim và vội vàng kêu xe cấp cứu. Ngược lại thì cũng có người mặt xanh như tầu lá, ngực nhói đau thì lại bảo vì ăn không tiêu, uống vài viên chống acit là ổn. Cả hai thái độ coi bộ đều cần được xét lại.

Thành ra, thêm một chút hiểu biết về những cơn đau từ ngực tưởng cũng không phải là dư.

Đau ngực có thể là từ nhiều cơ quan khác nhau, chứ không riêng gì từ trái tim.

1- Đau không từ trái tim

a. Bệnh của túi mật như viêm hoặc sỏi mật đôi khi cũng gây đau tương tự như cơn đau của tim.

b. Chứng ợ chua với chất acit từ bao tử trào ngược lên thực quản, tạo ra cảm giác nóng cháy sau xương ức.

c. Viêm màng bọc hai lá phổi vì sưng phổi gây ra cảm giác đau, nhất là khi ho hoặc hít thở mạnh.

d. Đau khi gẫy nứt xương sườn hoặc viêm lớp sụn nối tiếp xương sườn với xương ức.

e. Đau nhức các cơ liên sườn hoặc khi dây thần kinh bị kẹp.

g. Đau ngực trong các bệnh phổi như phổi tràn khí phế mạc (pneumothorax), hen suyễn, nghẽn động mạch phổi.

h. Trong bệnh zona do virus thủy đậu gây ra, đau nhức từ sau lưng tới lồng ngực kèm theo một dải những mụn nước.

i. Nuốt nhiều không khí khi vội vàng ăn hoặc uống nước có hơi hoặc uống với ống hút. Không khí làm căng bao tử, tạo ra cảm giác đau đau ở phía trái bụng dưới.

Người đang tức giận bực mình cũng nuốt nhiều hơi trong khi ồn ào, hổn hển diễn tả lời nói.

k. Nằm ngủ với cánh tay, bả vai ở vị thế bất bình thường cũng đưa tới đau ngực.

l. Trong cơn hoảng sợ, tim đập nhanh, hơi thở dồn dập, đổ mồ hôi, hụt hơi thở cũng thường có cơn đau trước ngực.

2-Đau từ trái tim

Đau từ trái tim cũng có nhiều loại:

a-Cơn-đau-thắt-ngực, tiếng Anh gọi là angina pectoris. Angina có nghĩa đau như co thắt, xiết chặt trái tim lại (constricting pain). Pectoris là lồng ngực.

Năm 1768, bác sĩ người Anh William Heberden là người đầu tiên tả cảm giác này một cách ngắn gọn, linh động như sau: “Người bị cơn đau thắt ngực hành hạ khi đang đi lên một con đường dốc hoặc sau khi ăn no. Đau rất khó chịu tưởng như có thể chết đi được nếu cơn đau cứ tiếp tục. Nhưng may mắn là khi người đó nghỉ thì cơn đau hết tức thì”.

Đau của angina cho cảm giác như co thắt toàn thể hoặc phần ngực nằm sau xương ức, lan lên cổ, hàm, má, bả vai, cánh tay và xuống cả vùng giữa bụng hoặc giữa hai xương bả vai.

Đau thắt ngực thường xảy ra khi ta leo lên một ngọn đồi hoặc bước những bậc cầu thang lên lầu, khi đi trong gió lạnh, mang vật nặng, cào lá, làm vườn, xúc tuyết, vươn mình chạy đỡ đường banh quần vợt, đang coi một truyện phim nhiều kích động, đôi khi cả trong lúc hấp dẫn giao hợp hoặc những cơn thịnh nộ, lo âu. Cũng có trường hợp đang ngủ, cơn đau xuất hiện đánh thức nạn nhân bừng dậy ôm ngực nhăn nhó.

Mỗi cơn đau như vậy kéo dài không quá 10 hoặc 20 phút và hầu như chầm dứt khi ta ngưng hoạt động đã gây ra cơn đau. Hoặc đặt dưới lưỡi một viên nitroglycerin. Và khi được hỏi đau ở đâu thì hầu như mọi người đều chỉ vào ngực với cả bàn tay chứ không với một ngón tay.

Tại sao có cơn đau thắt ngực như vậy?

Thưa đau là tiếng kêu cứu, phản kháng của trái tim bị bỏ đói, thiếu dưỡng khí mà còn bị lạm dụng bóc lột sức lao động quá mức.

Với kích thước bằng nắm tay, trái tim co bóp liên tục ngày đêm 70 lần trong một phút để bơm ra, hút vào một lượng máu khổng lồ là 6 tấn máu vào cả ngàn cây số mạch máu mỗi ngày.


Để hoàn tất nhiệm vụ của một cái bơm, các cơ của tim cần được nuôi dưỡng với oxy. Động mạch vành lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng này.

Động mạch vành có hai nhánh chính trước và sau tim và các nhánh phụ bao phủ toàn bộ trái tim như một cái vương miện. Bình thường, tim và động mạch có khả năng thích nghi, làm việc nhiều hơn một chút để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng khi cơ thể hoạt động mạnh mẽ hơn.

Động mạch vành có đường kính khoảng từ 2-3 mm, vừa đủ rộng để chứa một chiếc que diêm.

Nhưng khi động mạch vành bị thu hẹp, sự nuôi dưỡng cơ tim giảm đi. Cơ tim gào thét bằng những cơn đau, để báo động cho con người là họ đang trong tình trạng hiểm nghèo.

Thu hẹp thông thường của động mạch là do những mảng chất béo cholesterol bám vào thành động mạch vành. Cholesterol cần cho cơ thể, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Nếu cao quá thì chúng phải kiếm chỗ để dung thân. Mà gần nhất là ở ngay các động mạch mà chúng đang lưu hành. Đó là sự Vữa Xơ Động Mạch (Atherosclerosis).

Khởi thủy là lớp màng lót của một chỗ nào đó trong động mạch trở nên mềm rồi một thời gian sau cứng lại. Cholesterol bắt đầu bám vào đó, mỗi ngày mỗi cao hơn. Khoáng chất calci trong máu cũng nhân cơ hội táp vô, làm mảng cứng, khó tan.

Diễn tiến của sự vữa xơ rất chậm, có khi cả năm và không có triệu chứng báo hiệu. Con người vẫn “vô tư” ăn uống, với nhiều chất béo cholesterol rất ngon miệng trong món ăn. Lòng động mạch thu hep dần dần và khi đường kính động mạch giảm tới 75% thì chuyện chẳng lành xảy ra. Đó là cơn đau-thắt-ngực, angina.

Mỗi cơn đau tại một vùng cơ thể là một lời cảnh cáo, một báo hiệu có hiểm nguy, khó khăn đâu đó. Để con người biết mà đề phòng, đối phó, chữa trị.

Trái tim thiếu nuôi dưỡng, làm việc quá sức và kêu đau. Nếu ngưng nguyên nhân gây đau, tim dịu xuống, hết nhăn nhó.

Cũng có một số trường hợp, vữa xơ không đưa tới cơn đau thắt ngực. Đó là ở những người mà động mạch vành thu hẹp đã tạo ra được vài mạch máu bên lề (collateral), vòng qua đường hẹp tắc, dẫn máu nuôi tim.

Hiện tượng vữa xơ cũng thấy ở các động mạch nuôi thận, nuôi não, nuôi ruột, nuôi tứ chi.

Ở não, vữa xơ gây ra tai biến não (stroke). Ở thận đưa tới suy thận, phải lọc máu, thay thận. Ở chân đưa tới khập khiễng cách hồi (clauditation intermittant) với đau bắp vế khi đi, khi chạy, hết đau khi ngồi khi nghỉ…

Những rủi ro đưa tới vữa xơ là cao huyết áp, béo phì, cao cholesterol trong máu, phì phèo thuốc lá luôn miệng, tiểu đường, không vận động cơ thể, căng thẳng tâm thần…

Để xác định cơn-đau-thắt-ngực, bác sĩ cần tìm hiểu y sử người bệnh, hoàn cảnh nào angina xảy ra, cơn đau như thế nào, thường thường nạn nhân làm gì để giảm cơn đau.

Rồi khám tổng quát, nghe nhịp tim, đo điện tâm đồ khi bệnh nhân nghỉ và sau khi bệnh nhân bước lên chục bực thang hoặc đi trên máy đi bộ (treadmill).

Angina thường thường giảm hết sau khi ngưng động tác gây ra nó hoặc sau khi dùng nitroglycerin.

Nitroglycerin là dược phẩm có tác dụng trị liệu rất lớn và thường được dùng để loại bỏ cấp kỳ cũng như giảm tần số và phòng tránh các cơn angina.

Thuốc làm giãn mở động mạch vành, khiến cho máu lưu thông tới tim nhiều hơn để giải tỏa cơn đau kêu gào thiếu dưỡng khí của cơ tim. Thuốc cũng làm giãn mở mạch máu toàn thân, nhờ đó tim cũng bớt phải co bóp mạnh hơn để bơm máu ra.

Thuốc được đặt dưới lưỡi để tự tan ngấm váo máu và tác động tức thì. Nhớ đừng nhai đừng nuốt nitroglycerin.

Cũng có loại nitroglycerin dạng mỡ thoa trên ngực với tác dụng kéo dài vài giờ.

Dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu viên đầu không thấy công hiệu, có thể dùng thêm một viên nữa. Và nếu cơn đau không giảm sau khi dùng thuốc 15 phút, nên cho bác sĩ hay ngay.

Cơn đau liên tục xẩy ra cần được điều trị tại nhà thương, vì rất có thể là ta bị cái đau của cơn-đau-tim, Heart attack.

Để được an toàn, nên nghĩ tới heart attack khi angina không thuyên giảm với nghỉ hoặc với hai ba viên nitroglycerin.

Cũng nghĩ tới heart attack nếu chưa bao giờ bị angina mà bây giờ chợt bị đau nơi ngực, không bớt khi ngưng công việc đang làm.

b- Cơn-đau-tim

Trên đây là đau-nghỉ-hết đau.

Bây giờ là đau, nghỉ cũng chẳng hết mà lại có nhiều nguy cơ nghỉ luôn trong lòng đất. Đó là cơn-đau-tim, heart attack.

Heart attack cũng báo hiệu bằng cơn đau trước ngực, đau như trái tim bị kẹp giữa hai ngàm của chiếc máy ép nước mía, kéo dài nhiều giờ và không thuyên giảm cho tới khi được cấp cứu (với morphine). Đau cũng xuất hiện ở vùng trên bụng, lan lên cổ, ra hai vai, tới cánh tay và có khi vòng ra sau lưng.

Bệnh nhân ở trong tình trạng lo sợ, toát mồ hôi lạnh, mặt xanh như tàu lá, ợ hơi (belching), ọe khan hoặc ói mửa. Thêm vào đó là cảm giác hụt hơi thở, hổn hển ngáp ngáp không khí, tim đập nhanh.

Ở nữ giới và lão niên, các dấu hiệu nhiều khi không rõ rệt, chỉ cảm thấy mệt mỏi, yếu sức khiến cho họ không nhận ra là đang trong cơn hiểm nghèo.

Nguyên do đưa tới heart attack cũng bắt nguồn từ những mảng cholesterol trong động mạch. Tới một lúc nào đó, một mảnh của mảng này tách ra, tạo thành ra một máu cục, di chuyển tới động mạch tim và hoàn toàn gây tắc nghẽn sự lưu thông máu tới nuôi tế bào tim. Tế bào chết vì thiếu oxy, mà y học gọi là nhồi-máu-cơ-tim (myocardial infarction).

Ngoài ra, heart attack cũng gây do một số nguy cơ khác như gia đình có người bị nan bệnh này, do hút nhiều thuốc lá, do cao huyết áp, tiểu đường, lạm dụng thuốc cấm cocaine…Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, các rủi ro này kết cấu với nhau để gây ra thiệt hại cho trái tim và đưa tới heart attack.

Xác định heart attack bằng khám tổng quát, đo điện tâm đồ, chụp x-quang tim và thử máu tìm mức độ men tế bào tim. Khi tế bào tim bị hủy hoại, chúng nhả ra những enzyme và tế bào càng chết nhiều thì enzyme trong máu càng cao.

Cơn-đau-tim là một cấp cứu y khoa vì tử vong có thể xảy ra trong vài chục phút. Nhiều người thiệt mạng trước khi tới bệnh viện vì họ coi thường các dấu hiệu báo động.

Bệnh nhân thiệt mạng phần lớn là do rối loạn nhịp tim. Nhịp tim nhanh loạn xạ (tachycardia), rung tim thất (ventricular fibrillation) đưa tới tim rung rinh (quivering), co giật (twitching) thay vì co bóp (beating) và cuối cùng là ngưng tim, nhiệm vụ bơm máu chấm dứt.

Do đó, các cơn đau ngực đều nên coi là khẩn cấp. Nếu bất cứ dấu hiệu nào mà ta nghĩ là có thể xuất phát từ trái tim, thì kêu cấp cứu ngay.

c-Viêm màng bọc trái tim

Màng bọc trái tim hoặc ngoại-tâm-mạc (pericardium) là một cái màng bao quanh tim để che chở cho cơ quan nhỏ bé nhưng quý giá này. Màng có thể bị viêm vì nhiễm virus, chứng ure huyết, ung thư và có các triệu chứng như đau ngực, nóng sốt…

d- Rách động mạch chủ

Động mạch chủ (aorta) là động mạch chính của cơ thể, xuất phát từ tâm thất trái, uốn cong phía trên tim rồi chạy xuống ngực và bụng, phía trước xương sống.

Khi bị một cú đập mạnh vào ngực, hoặc khi huyết áp lên quá cao, lớp màng lót của động mạch chủ có thề bị rách (aorta dissection), tạo ra một cơn đau ngực không lường trước, rất dữ dội, có thể chết ngưới. May mắn là chuyện này rất hiếm khi xảy ra.

e- Co thắt cơ của động mạch vành

Đôi khi cơ của động mạch vành co thắt và cũng đưa tới đau ngực từng cơn. Nguyên do có thể là tự nhiên co hoặc bị các chất như nicotine, caffeine kích thích. Co thắt xảy ra khi nghỉ cũng như đang hoạt động.

Kết luận

Đó là những cơn đau ngực với các nguyên nhân. Biết chúng để đối phó với chúng là điều cần, vì cẩn tắc vô ưu, cứu bệnh như cứu hỏa.

Bác sĩ chuyên bệnh Tim Mạch Harvey Simon, Đại học Y khoa Harvard, thường nói với các sinh viên của ông rằng: “Dấu hiệu thông thường nhất của cơn-đau-tim là cơn đau thắt ngực và dấu hiệu thứ nhì là sự phủ nhận denial, vùi đầu trong cát. -Ôi chỉ một chút căng thẳng, khó tiêu, hết ngay ấy mà!”

Và ông đề nghị: với mọi nhói tim, nặng ngực, khó thở, cần tham khảo ý kiến bác sĩ ngay. Kẻo rồi lại quá trễ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

4.21.2008

Thiền để chữa bệnh


Theo các nhà nghiên cứu, thiền - giống như các loại thuốc chống trầm uất - mang lại sự thư thái, giúp tinh thần có đủ khả năng gạt bỏ mọi tạp niệm và không bị kích động bởi những suy nghĩ hay những sự kiện chợt lóe lên hoặc đã ăn sâu trong đầu.

* Chữa bệnh trầm uất

Một nghiên cứu thí điểm do giáo sư tiến sĩ Roger Walsh thuộc Trường ĐH California, Irvine (Mỹ) dẫn đầu cho rằng thiền rất hiệu quả trong việc chống lại căn bệnh trầm uất và là liệu pháp để chữa trị bệnh trầm uất.

Theo các nhà nghiên cứu, thiền - giống như các loại thuốc chống trầm uất - mang lại sự thư thái, giúp tinh thần có đủ khả năng gạt bỏ mọi tạp niệm và không bị kích động bởi những suy nghĩ hay những sự kiện chợt lóe lên hoặc đã ăn sâu trong đầu.
Nghiên cứu này đăng trên tờ Journal Of Mental And Nervous Disorders số ra mới nhất.

* Chữa bệnh tim mạch và tiểu đường

Một nghiên cứu mới đây do Hội Tim mạch Hoa Kỳ giới thiệu cho rằng phương pháp thiền của Ấn giáo làm giảm đáng kể những yếu tố rủi ro do “hội chứng chuyển hóa” - nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp và tiểu đường.

Tác giả nghiên cứu, bác sĩ Noel Bairey Merz, giám đốc khoa phục hồi và ngăn ngừa bệnh tim mạch thuộc Trung tâm Y học Cedars - Sinal ở Los Angeles, quả quyết những người tập thiền theo phương pháp Ấn giáo có thể chữa được bệnh cao huyết áp và tiểu đường

(Theo bacsigiadinh.com)

4.03.2008

Thuốc lá và sức khoẻ


1.Trong quá khứ, thuốc lá đã được cố ý quảng cáo, thi vị hoá khắp nơi, từ các bảng quảng cáo, đến phim ảnh, các bài hát, thơ văn..

2.Về khía cạnh sức khoẻ, thuốc lá là chất gây nghiện và rất độc hại.
- Đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh rất rõ ràng sự độc hại của nó.
- Ngay cả các hãng sản xuất thuốc lá cũng đều công nhận và ghi chú trên gói thuốc rằng "thuốc lá có hại cho sức khoẻ"

3.Thuốc lá chứa khoảng 4,000 chất, mà rất nhiều chất có hại cho sức khoẻ. Có 3 chất đặc biệt quan trọng là
- Nicotine, là
- chất chính khiến cho người ta nghiện thuốc.
- Nó kích thích sự bài tiết của epinephrine vào máu khiến tim làm việc mạnh hơn, và
- làm co mạch máu gây tăng huyết áp

- Nhựa thuốc (tar),
- gây ra sự khích thích kinh niên lên hệ hô hấp, và là
- một trong những nguyên nhân chính gây ung thư phổi

- Carbon monoxide (giống như chất thải ra từ khói xe).
- Vào máu, nó làm giảm khả năng chuyên chở dưỡng khí của hồng huyết cầu và
- cũng làm tổn thương và xơ cứng thành mạch máu,
- làm tăng nguy cơ bị các cơn kích tim (heart attack)

4. Các loại thuốc lá khác nhau có khác nhau nhiều không? Xì gà, ống điếu, có khác thuốc lá không?
- Về mặt sức khoẻ, không khác gì nhiều
- Có đầu lọc hay không, thô hay có mùi nhẹ, tẩu hay ống điếu cũng đều gây ra các tác hại không khác nhau bao nhiêu

Xin nhắc lại sức khoẻ là gì?

- "Thoải mái cả về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ không có bệnh" (định nghiã của Tổ Chức Sức Khoẻ Thế Giới)

5. Thuốc lá có ảnh hưởng như thế nào đến sức khoẻ về khía cạnh thể chất?
- Tăng tỉ lệ bị các loại ung thư, bệnh tim mạch, bệnh phổi, bất thường trong thai kỳ, hoạt động tình dục, bệnh mắt, bệnh răng và nhiều bệnh khác trên toàn cơ thể

6. Tăng nguy cơ bị các loại ung thư nào?
- Ung thư phổi:
o 87 phần trăm tử vong do ung thư phổi ở đàn ông và 80 phần trăm tử vong do ung thư phổi ở đàn bà có nguyên nhân từ thuốc lá,
o So sánh với người không hút thuốc, đàn ông hút thuốc có nguy cơ bị ung thư phôỉ tăng gấp 23 lần, đàn bà gấp 13 lần

Có nhiều bằng chứng cụ thể từ các nghiên cứu khoa học cho thấy nhiều loại ung thư khác cũng liên quan đến thuốc lá:
o Vòm họng
o Khí quản
o Thanh quản
o Thực quản
o Bàng quang
o Dạ dày
o Cổ tử cung
o Thận
o Tụy tạng (lá miá)
o Ung thư máu (acute myeloid leukemia)

7. Thuốc lá làm tăng nguy cơ bị các bệnh tim mạch như thế nào?
- Cao huyết áp, cao mỡ (cholesterol),
- bị tai biến mạch máu não,
- bị kích tim (nhồi máu cơ tim),
- đau tim do nghẹt động mạch tim,
- suy tim do các bệnh tim kể trên,
- tỉ lệ chết bất đắc kỳ tử do tim cũng cao hơn (ở Việt Nam thường được gọi là "trúng gió")

8. Ngoài ung thư phổi, thuốc lá còn ảnh hưởng thế nào đến hệ thống hô hấp?
- Khàn giọng mạn tính, viêm phế quản mạn tính, khí phế thủng..
- So với người không hút thuốc, tỉ lệ tử vong do các bệnh tắt nghẽn phổi mạn tính cao gấp 12 lần ở đàn ông và 13 lần ở phụ nữ

9. Thuốc lá cũng có ảnh hưởng đến thị giác nữa sao?
- Thuốc lá cũng liên quan chặt chẽ với bệnh cườm nhân mắt (nuclear cataract)
- là bệnh thường gây mù nhất ở người lớn tuổi trên khắp thế giới.
- So với người không hút thuốc, người hút thuốc có nguy cơ bị bệnh này cao gấp ba lần

10. Thuốc lá có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống tình dục?
- Một số nghiên cứu cũng thấy rằng người hút thuốc có tỉ lệ bị liệt dương (erectile dysfunction) cao hơn so với người không hút thuốc
- Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy thuốc lá có thể làm giảm số lượng tinh trùng ở đàn ông

11. Thuốc lá có ảnh hưởng thế nào đến phụ nữ, nhất là lúc có thai
- Phụ nữ hút thuốc có nguy cơ bị vô sinh cao hơn;
- hút lúc có thai sẽ dễ bị sinh non, con chết trong bụng mẹ, dễ bị hư thai, con sinh ra bị nhẹ cân
- Các chất độc của thuốc lá cũng được tìm thấy trong sữa của các bà mẹ hút thuốc

Thuốc lá còn có những ảnh hưởng nào khác đối với sức khoẻ về mặt thể chất?
- Sâu răng, bệnh nha chu (lợi răng), hôi miệng kinh niên
- Tăng nguy cơ bị loãng xương, gãy xương, loét dạ dày, tiểu đường
- Hay bị hụt hơi, dễ mệt mỏi, dễ bị tắt kinh sớm, rối loạn về kinh nguyệt
- Người hút thuốc có tỉ lệ nghỉ bệnh cao hơn, thường bị nhập viện hơn và thời gian phải ở trong bệnh viện kéo dài hơn, sau khi mổ lành chậm và hay bị biến chứng (nhất là viêm phổi) hơn
- Dễ bị phỏng (vì cháy nhà)

12. Người bị hít khói thuốc có bị ảnh hưởng giống như người hút hay không?
- Tuỳ theo từng loại bệnh, người bị hít khói thuốc cũng có thể bị các bệnh tương tự với mức độ ảnh hưởng khác nhau
- Đặc biệt là trẻ em bị hít khói thuốc có tỉ lệ bị bệnh phổi rất cao, dễ bị tiểu đường, cao mỡ, cao máu hơn và tỉ lệsau này cũng sẽ hút thuốc cao hơn rất nhiều. Tuổi càng nhỏ thì ảnh hưởng càng nặng

13. Xin tóm tắt

Tóm tắt:
o Thuốc lá là nguyên nhân có thể phòng ngưà được gây chết hàng đầu trên thế giới.
o Về khía cạnh thể chất, nó không chỉ ung thư phổi mà rất nhiều bệnh khác.
o Nó ảnh hưởng không những đến sức khoẻ người hút mà cả người bị hít khói thuốc của họ

Các kỳ sau:
o Ảnh hưởng của thuốc lá đến sức khoẻ về khía cạnh tâm thần và xã hội
o Tại sao người ta hút thuốc và tại sao nên bỏ thuốc
o Làm cách nào để bỏ thuốc
o Làm sao để khuyến khích và giúp người thân bỏ thuốc

Bài viết này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho các vấn đề cụ thể, chi tiết, của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ của quý vị để được thăm khám trực tiếp.

Ăn ít muối để cơ thể khỏe mạnh


Muối là yếu tố góp phần dẫn đến huyết áp cao, và quá nhiều muối trong chế độ ăn uống có thể rất nguy hiểm, đặc biệt là đối với những bệnh nhân mắc bệnh tim.

Dưới đây là những gợi ý về cách chuẩn bị bữa ăn chứa ít muối do Viện Quốc gia Hoa Kỳ về Tim, Máu và Phổi (U.S. National Heart, Lung, and Blood Institute) cho hay:

- Tránh cho thêm muối vào món ăn khi bạn đang ăn.

- Giảm lượng muối sử dụng khi nấu ăn. Bạn có thể sử dụng thảo mộc thay thế.

- Không cho muối vào nước nấu cơm hay nấu mì.

- Tránh dùng nước xốt hoặc gia vị đóng gói. Chúng thường chứa nhiều muối.

- Sử dụng thực phẩm tươi nếu có thể. Những thực phẩm đóng gói hoặc qua chế biến thường chứa nhiều muối.

(Theo Healthday)

3.28.2008

Nước tăng lực có thể gây nguy cơ mắc bệnh huyết áp cao


Dùng nước tăng lực (energy drink) có thể làm tăng huyết áp cũng như năng lượng, một nghiên cứu Mỹ được trình bày tại phiên họp khoa học của Hiệp hội Tim Hoa Kỳ ngày hôm qua (06/11) cho hay.

Theo nghiên cứu do các nhà khoa học thuộc đại học Wayne State thực hiện, mức độ nhịp tim và huyết áp cao tăng ở những người trưởng thành khỏe mạnh uống hai lon nước tăng lực phổ biến mỗi ngày.

Trong quá trình nghiên cứu, nhịp tim tăng 5 – 7 nhịp/phút và huyết áp tâm thu (systolic blood pressure) tăng 10 (mmHg) sau khi uống nước tăng lực, các nhà nghiên cứu cho hay.

Trong khi mức tăng này không đạt đến mức độ nguy hiểm cho những người khỏa mạnh thì sự tăng huyết áp và nhịp tim có thể được chứng minh là đáng kể về mặt lâm sàng ở những bệnh nhân mắc bệnh tim hoặc những người dùng nước uống tăng lực thường xuyên, ông James Kalus, người đứng đầu công trình nghiên cứu cho hay.

Nước tăng lực là các loại đồ uống nhẹ được quảng cáo được sản xuất riêng cung cấp năng lượng. Hầu hết nước tăng lực có chứa nhiều caffeine và taurine, một axit amino cũng được tìm thấy trong các thực phẩm có chứa protein chẳng hạn thịt và cá. Chúng đều có ảnh hưởng đến chức năng của tim và huyết áp trong một số nghiên cứu.

Cho đến khi có thêm các nghiên cứu mới, ông Kalus cho biết người mắc bệnh huyết áo cao hoặc bệnh tim nên tránh dùng nước tăng lực bởi vì chúng có thể ảnh hưởng đến huyết áp của họ và có thể thậm chí thay đổi tác dụng của các loại thuốc họ dùng.

Ngược lại, nước uống thể thao (sports drinks) nhìn chung có chứa hỗn hợp nước, đường và muối, không có chứa các hóa chất làm tăng năng lượng hoặc sự tỉnh táo.

Theo Asia View

3.26.2008

Sữa không béo có thể giảm chứng tăng huyết áp


Phụ nữ uống nhiều sữa không béo, thực phẩm có chứa vitamin D và canxi có tỷ lệ mắc chứng huyết áp cao hoặc tăng huyết áp thấp hơn những người khác, một nghiên cứu mới của Mỹ cho hay.

Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra chế độ ăn uống của khoảng 30.000 phụ nữ từ 30 tuổi trở lên và phát hiện những người dùng từ 2 phần sữa không béo mỗi ngày có thể giảm 10% nguy cơ mắc chứng huyết áp cao so với những người uống sữa không béo nhiều nhất là 1 lần/tháng.

Bên cạnh đó, tác dụng này cũng xảy ra đối với phụ nữ dùng nhiều sữa không béo, các sản phẩm từ sữa và tiêu thụ nhiều canxi, vitamin D.

Chứng tăng huyết áp là một yếu tố quan trọng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở nữ giới.

(Theo Zeenews)

3.23.2008

Bệnh nan y ngày càng tăng tại Việt Nam

Hình : nhà thương quá tải, không đũ giường cho con bệnh. Muốn được điều trị phải đặt cọc tiền deposit.


Kết quả cuộc nghiên cứu mới đây trên gần 170 ngàn nam, nữ độ tuổi trung niên tại Trung Quốc cho thấy 2/3 số người tử vong là do bệnh tim, ung thư, và tai biến mạch máu não. Giới chuyên môn cho rằng điều này chứng tỏ các căn bệnh nan y mãn tính không chỉ là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất tại các nước giàu, mà đã trở thành tử thần hàng đầu cả ở các quốc gia đang phát triển nữa.

Tình trạng tại Việt Nam ra sao? Trà Mi đã hỏi chuyện bác sĩ Nguyễn Văn Thành Như, trưởng khoa tim mạch bệnh viện An Bình, TPHCM để tìm hiểu thêm.

Trả lời câu hỏi về tỷ lệ bệnh nhân mắc phải các căn bệnh chết người này tại Việt Nam hiện nay, bác sĩ Như cho biết: Bác sĩ Nguyễn Văn Thành Như: Con số thống kê chính xác thì tôi không có, nhưng biết rằng con số càng ngày càng tăng cao đấy.

Trà Mi: Theo bác sĩ thì những nguyên nhân nào khiến cho các căn bệnh về tim mạch, ung thư, và tai biến mạch máu não ngày càng tăng tại Việt Nam ?

Bác sĩ : Cuộc sống khá hơn người ta ăn thừa mứa hơn...Tỷ lệ đàn ông Việt Nam hút thuốc lá rất cao..Hơn nữa, giờ phương tiện chẩn đoán bệnh nhiều hơn nên khám phá ra nhiều bệnh mà ngày xưa không hiểu nguyên nhân gì...

Trà Mi: So sánh giữa các bệnh ung thư, tim mạch, và đột quỵ tại Việt Nam thì bác sĩ thấy bệnh nào có tỷ lệ tử vong cao nhất?

Bác sĩ : Theo tôi ở Việt Nam chết vì đột quỵ là nhiều nhất . Ung thư thì tôi không làm nên không dám nói, nhưng thấy số bệnh nhân đến các trung tâm tại TPHCM ngày càng quá tải. Riêng chuyên môn của tôi về tim mạch thì thấy người ta bị đột quỵ nhiều. Ngoài ra, nhồi máu cơ tim và các bệnh về tim mạch cũng có tăng lên ....

Trà Mi: Xin hỏi thăm bác sĩ về các biện pháp chẩn đoán và chữa trị các căn bệnh nan y này tại Việt Nam hiện nay tiến bộ ra sao?

Bác sĩ : Có chứ...Về ung thư cũng đã có nhiều thuốc. Về đột quỵ thầy thuốc Việt Nam cũng đã có nhiều kiến thức về cách xử trí tình trạng bệnh..có cập nhật thông tin..và hầu như việc điều trị tai biến mạch máu não cũng đã có sự tiến bộ.

Về nhồi máu cơ tim bây giờ các bệnh viện lớn tại TPHCM đã có máy móc thông động mạch vành tim giống những nứơc tiên tiến, có thể làm bắc cầu nối động mạch vành ...

Trà Mi: Còn các bệnh viện ở xa thì sao ạ?

Bác sĩ : Họ cho uống thuốc và nếu đủ điều kiện thì chuyển lên các bệnh viện lớn ở thành phố..nhưng bệnh nhân phải đủ tài chánh, không phải ai cũng được....

Trà Mi: Chi phí điều trị các bệnh này mắc rẻ ra sao?

Bác sĩ : Mắc chứ, chỉ những thành phần trung lưu mới có thể hưởng được...

Trà Mi: Thế còn các bệnh nhân ở tỉnh mắc phải các chứng bệnh nan y này ?

Bác sĩ : Bây giờ bảo hiểm sức khỏe bắt đầu chịu trang trải những chi phí tốn kém cho bệnh nhân có bảo hiểm xã hội, nhưng không phải ai cũng được... nhiều vấn đề tế nhị lắm..

Trà Mi: Xin bác sĩ cho vài lời khuyên đối với các bệnh nhân mắc phải bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim, và tai biến mạch máu não. Họ nên làm gì để phòng và điều trị bệnh cho hiệu quả?

Bác sĩ : Hai lĩnh vực: phòng chống cá nhân và phòng chống cho toàn dân.

Phòng chống toàn dân: đấu tranh chống hút thuốc lá mạnh mẽ...cần những chính sách giáo dục và phổ biến kiến thức sức khỏe rộng rãi đến toàn dân...

Phòng chống cá nhân: Ăn uống kiêng khem, không nên ăn chất béo bão hoà, không ăn quá mặn, vận động thể lực...Đến tuổi trung niên nên khám sức khoẻ định kỳ để theo dõi và phát hiện bệnh kịp thời...quan trọng nhất là ý thức giữ gìn sức khỏe của bệnh nhân...

Trà Mi: Xin cảm ơn bác sĩ đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi hôm nay.

12.06.2007

tại sao các nhà sản xuất bánh bỏ quá nhiều đường vào sản phẩm của họ ?


Các chuyên gia phân tích và kết luận: vì đường nhiều kích thích khẩu vị để ăn nhiều thực phẩm hơn. Càng ăn nhiều thì các hãng sản xuất càng có lợi, tốt cho công việc làm ăn của họ. Họ dùng tiền kiếm được để quảng cáo rầm rộ và ảnh hưởng đến người tiêu dùng.

Nhưng sự ăn nhiều đường ấy đã liên quan mật thiết đến bệnh béo phì. Những người ăn thực phẩm tinh chế và chế biến sẵn (vô bao, đóng hộp) thường tiêu thụ calories 25% nhiều hơn những người ăn uống bình thường.

Một lon nước giải khát có ga (nước ngọt soda) 12oz có chứa khoảng 13 muỗng cà phê đường ở dạng xi-rô bắp đậm đặc vừa kể ở trên.

Một người Hoa Kỳ uống trung bình 55 gallons nước giải khát có ga (nước ngọt soda) hàng năm. Từ 10 đến 15% lượng calories mà thanh thiếu niên Hoa Kỳ tiêu thụ đến từ nước giải khát có ga (soda) và vì thế mà ở hầu hết các trường học máy bán nước ngọt có ga nhiều hơn các vòi nước.

Ăn nhiều đường chẳng những liên quan đến béo phì mà còn đến các chứng bệnh hiểm nghèo khác như sạn thận, loãng xương, sâu răng và bệnh tim. Đừng quên rằng đường và xi-rô bắp cũng gây nghiện trên người xử dụng, càng ăn nhiều lại càng muốn ăn nữa, thiếu là thèm."

Tiến sĩ Goro nói:"... Ăn nhiều thịt và chất béo là những yếu tố chính có thể gây ra ung thư."


Ngày nay chính phủ (Hoa Kỳ) ban hành đạo luật "Conquest of Cancer" (chinh phục bệnh ung thư), chính thức mở màn cho chiến dịch được gọi là "Cuộc chiến tranh chống lại bệnh ung thư". Tới giờ phút các bạn đọc những dòng này, cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn. Mỗi ngày Viện Ung Thư Quốc Gia chi ra mấy triệu đô la. Chưa kể đến những tổ chức khác như Hội Ung Thư Hoa Kỳ, mỗi ngày tốn hơn triệu đô la cho công trình nghiên cứu chống ung thư.

Nhưng, dù tiêu nhiều tiền như vậy, cuộc chiến chống ung thư không mang lại kết quả mong muốn. Chúng ta không tàn sát kẻ thù; kẻ thù đang tàn sát chúng ta. Tiến sĩ Linus Pauling, người đoạt hai giải Nobel đã tuyên bố: "Tất cả mọi người cần phải biết rằng cuộc chiến chống ung thư là một sự lừa bịp."

Những loại ung thư thông dụng nhất - ung thư phổi, ruột kết, vú, nhiếp hộ tuyến, mật và buồng trứng - là nguyên nhân gây nên đa số những trường hợp tử vong về ung thư. Tỷ lệ tử vong của những chứng ung thư đó vẫn giữ nguyên, hoặc tăng lên, trong 50 năm qua. Và những thống kê cho các loại ung thư ít xảy ra cũng bi quan không kém.

Những cách trị ung thư thường được áp dụng nhất ngày nay là giải phẫu, phóng xạ và hóa dược trị liệu. Cách chữa nào cũng có tính cách xâm lấn vào cơ thể bệnh nhân. Cách chữa nào cũng có những tác dụng bên lề tai hại. Cách chữa nào cũng chỉ trị những triệu chứng chứ không đi vào căn nguyên của bệnh. Và tỷ lệ thành công thì rõ ràng là thấp..."

"... Ngày nay, chữa trị ung thư là một doanh nghiệp khổng lồ. Cứ mỗi 30 giây lại có thêm một người Hoa Kỳ bị ung thư. Trung bình một bệnh nhân bỏ ra trên 25 ngàn đô la để cố gắng chữa chạy. Nhưng, đáng buồn thay, đó chỉ là phí tiền vô ích. Vì mỗi 55 giây lại có một người Mỹ chết vì ung thư..."

"... Các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư muốn biết lối sống nào đích thực gây nên những tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao. Trong tạp chí "Advances in Cancer Reseach", họ kết luận như sau:

"... Chúng ta có rất nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng, trong những yếu tố tạo nên rủi ro bị ung thư... không yếu tố nào đáng kể hơn lối ăn và sự dinh dưỡng."

Trong khi thực hiện những cuộc điều trần để tìm hiểu những hậu quả về mặt sức khỏe của lối ăn uống của người Mỹ, Ủy ban Thượng viện kêu gọi đến một chuyên viên, tiến sĩ Gio B. Goro, phó giám đốc Sở Phòng Ngừa Ung Thư tại Viện Ung Thư Quốc Gia. Ông này nói:

"Khoa dinh dưỡng tỏ ra là một ngành rất hứa hẹn trong vấn đề phòng ngừa và kiểm soát bệnh ung thư và nhiều bệnh khác, và trong vấn đề bảo đảm, duy trì sức khỏe của con người."

Lẽ tất nhiên, Thượng viện muốn biết đích xác những ảnh hưởng nào của lối ăn uống sẽ dễ gây ra ung thư. Đa số chúng ta nghĩ đến những hóa chất thêm vào trong thực phẩm như loại để giữ đồ ăn lâu hư, mầu nhân tạo và loại để tạo mùi vị. Nhưng, dù những hóa chất đó có tác hại thật, chúng vẫn không phải là thủ phạm chính. Tiến sĩ Goro nói:

"... Ăn nhiều thịt và chất béo là những yếu tố chính có thể gây ra ung thư."

Các ngành sản xuất thịt, sữa, và trứng vốn không vui với kết quả nói rằng cholesterol và chất béo saturated (bảo hòa) gây ra bệnh tim. Và bây giờ họ lại càng không vui khi được biết rằng thịt và chất béo dính líu đến bệnh ung thư.

Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission - FTC) muốn nghe quan điểm của một chuyên gia độc lập để giúp họ xác định có phải là những thức ăn gây nên bệnh tim cũng có thể gây nên bệnh ung thư hay không. Họ mời một chuyên gia về khoa dinh dưỡng tại đại học Harvard ra điều trần, đó là tiến sĩ Mark Hegstead. Ông này nói:

"Tôi nghĩ rằng rõ ràng lối ăn uống của người Mỹ là một nguyên nhân gây bệnh đau tim. Và tôi nghĩ rằng cũng lối ăn đó là nguyên nhân gây nên nhiều loại ung thư: ung thư vú, ung thư ruột kết, và những ung thư khác..."

Không chỉ là bệnh ung thư mà các căn bịnh khác như cao máu, tiểu đường, tim mạch, đột quỵ, béo phì cũng được đề cập đến trong sách.

Các nhà phê bình, điểm sách đã đánh giá rất cao cuốn sách Diet for A New Ameria và trên thị trường, số sách cả triệu cuốn được tái bản đi tái bản lại suốt trong 20 năm qua (1987 - 2007) trong hạng mục "best seller", chứng minh những phê bình, khen tặng trên là sự thật....

Tỉ như vấn đề ăn gạo lứt muối mè của Thánh y Ohsawa, lấy từ tinh hoa y học cổ truyền Đông phương, xưa nay không thiếu người phân vân, bán tín bán nghi. Trong cao trào đang lên mạnh tại Hoa Kỳ hiện nay, việc ăn gạo lứt và các loại ngũ cốc nguyên hạt (whole grains) là cách được chọn làm mẫu mực.

Nên nhớ, người Mỹ không dễ gì tin vào những luận cứ vu vơ mà họ chỉ tin vào kết quả nghiên cứu khoa học, có cơ sở chứng minh hẳn hoi. Và đây là kết quả của việc ăn gạo lứt và ngũ cốc nguyên hạt (whole grians) khiến người Mỹ, nhất là giới thượng lưu, đang thi nhau áp dụng:

"Gạo trắng hay bột mì trắng là vì người ta đã bỏ đi phần cám của nó. Phần cám mầu nâu ấy chứa toàn là những chất bổ dưỡng và không có hại, thứ hại mà ngày nay ai bị bệnh tiểu đường vẫn sợ nơm nớp. Đó là "tinh bột" tạo đường và thường thì Tây y bảo phải tiết giảm việc ăn tinh bột.

Phải mất nhiều chục năm trời các nhà nghiên cứu độc lập Hoa Kỳ mới có cơ hội hoàn thành những nghiên cứu nghiêm chỉnh và có giá trị. Một trong những bản nghiên cứu thuộc lọai này được công bố trên tạp chí Journal of The American Dietetic Asscociation vào năm 2001, kéo theo phong trào bỏ ăn bánh mì trắng và thay vào đó là bánh mì làm bằng bột nguyên hạt (whole grain) tương tự với gạo lứt. Nguyên do? Bởi vì trong bản báo cáo này, các nhà nghiên cứu đã chứng minh ăn gạo lứt, bột nguyên hạt whole grains ngăn ngừa được ung thư.

Một con số hết thuyết phục: trong tất cả 45 cuộc nghiên cứu đề tài liên quan, có tới 43 nghiên cứu công nhận gạo lứt và bột nguyên hạt whole grains giúp ngăn ngừa ung thư.

Khi người ta làm trắng gạo, bỏ cám thì tỉ lệ phần trăm các chất bổ bị mất đi là: Protein 25%, Chất xơ (Fiber): 95%, Calcium: 56%, Đồng (Copper): 62%, Sắt (Iron): 84%, Manganese: 82%, Phosphorus: 69%, Potassium (Kali): 74%, Selenium: 52%, Kẽm (Zinc): 76%, VitaminB1: 73%, Vitamin B2: 81%, Vitamin B5: 56%, Vitamin B6: 87%, Folate: 59%, Vitamin E: 95%."

Bột mì trắng, gạo trắng và các sản phẩm ngũ cốc tinh chế khác được hấp thu nhanh vào dòng máu, gây ra sự dao động mức đường trong máu. Chất xơ có trong ngũ cốc nguyên hạt làm chậm những dao động đó, giúp làm giảm thấp các mức cholesterol, giữ cho đường tiêu hóa lành mạnh, và còn tạo ra nhiều lợi ích khác nữa. Ngoài ra, ngũ cốc nguyên hạt cũng cung cấp những chất bổ dưỡng quan trọng, bao gồm các vitamin B, vitamin E và nhiều chất cải thiện sức khỏe khác..."

12.01.2007

Bệnh Thống Phong ( Gout )


Thống Phong là một trong những bệnh được biết tới từ lâu. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết bệnh ở xác ướp cổ nhân Ai Cập 4000 năm về trước.

Danh y Hyppocrate nói tới bệnh này từ 2500 năm trước. Theo ông, thống phong là bệnh của người cao tuổi, giàu có, rượu chè ăn uống quá độ, còn viêm xương khớp là bệnh của người nghèo lao động chân tay vất vả.

Danh y Thomas Hydenham (1624-1689), cha đẻ nền y học Anh quốc, đã mô tả chi tiết về bệnh như sau: “Bệnh nhân lên giường ngủ ngon lành tới hai giờ sáng thì bị đánh thức dậy bởi cơn đau không chịu nổi ở ngón chân cái, đôi khi ở gót chân, bắp chuối và cổ chân. Cơn đau giống như trường hợp trật khớp. Rồi trong người thấy run lạnh, nóng sốt. Cơn đau tăng dần đến nỗi bệnh nhân không đi lại được và chỉ một lớp quần áo đè nhẹ lên cũng tăng đau”.

Bản thân bác sĩ Hydenham cũng bị thống phong hành hạ.

Nạn nhân của thống phong gồm đủ hạng người, từ thứ dân cho tới các nhân vật quyền quý, văn nghệ sĩ, chính trị gia…Các nhân vật thời danh như Alexander Đại Đế, Vua Louis XVI, phụ thân và nội tổ của ngài; bốn hoàng tử và một công chúa của vua George III bên Anh, Benjamin Franklin, Isaac Newton, thủ tướng Anh Chamberlain… đều bị thống phong thăm viếng.

Antoni Van Leeuwenhoek (1632–1723), một trong nhiều khoa học gia khám phá ra kính hiển vi, đã tả hình dạng của các tinh thể ở khớp sưng vì thống phong, nhưng thành phần hóa chất lúc đó chưa được biết tới.

Colchicum (meadow saffron) đã được các y sĩ Ả Rập sử dụng khoảng năm 1000 để trị TP.

Dược phẩm Allopurinol do khoa học gia George H. Hitchings, Giám Đốc Phòng thí nghiệm Burrouhs Wellcome ở Nữu Ước chế biến năm 1943.

Tiếng Anh của thống phong là “Gout”, tiếng Pháp là “Goutte”.

Gout có nguồn gốc La Tinh “gutta”, nghĩa là “giọt”, vì khi xưa có tin tưởng là một chút chất lỏng nào đó tụ tại khớp và gây ra bệnh.

* Nguyên nhân gây bệnh

Thống Phong là một loại viêm khớp với đặc tính là tăng mức độ uric acid trong máu và sự kết tụ tinh thể urate trong mô bào. Acid này đến từ chất purines trong một số thực phẩm và từ sự chuyển hóa căn bản của cơ thể. Mức độ trung bình uric acid trong máu là 6.8 mg/dl.

Bình thường, uric acid hòa tan trong máu và được thận thải ra ngoài theo nước tiểu. Nếu uric acid lên quá cao mà không được thải ra ngoài, chúng phải kiếm chổ để dung thân, như trên da, trong thận. Sạn urate (tophi) thường thấy ở dái tai, khuỷu tay và ngón tay, ngón chân. Nhưng khi chúng tập trung ở khớp xương thì có chuyện chẳng lành. Nơi đây, uric acid tích tụ dưới dạng các tinh thể dài sắc bén như kim, châm chích vào cấu tạo khớp và gây ra cơn đau khủng khiếp.

Các khớp xương thường bị tấn công là ngón chân cái, gót chân, mu bàn chân, gân Achilles là các vùng nhiệt độ thấp và tinh thể acid thích kết tụ nơi mát lạnh.

Tinh thể uric acid kết tụ dần dần, có khi cả chục năm trước khi gây ra cơn đau viêm sưng khớp đầu tiên. Cơn đau này có thể xẩy ra sau khi chân bị một chấn thương nhỏ và thường thì tự hết sau vài ngày. Tuy nhiên, cơn viêm đau thường tái phát trong vòng một vài năm với nhịp độ thường xuyên hơn ở nhiều khớp khác nhau.

Có nhiều lý do đưa tới cao uric acid: giảm bài tiết từ thận, tăng sản xuất trong cơ thể và tăng tiêu thụ thực phẩm chứa nhiều chất đạm purines.

Một phần lớn uric acid do chính cơ thể sản xuất mỗi ngày qua các phản ứng sinh học hoặc trong một số bệnh kinh niên (như bệnh ung thư máu, hoại huyết hoặc bệnh vẩy nến.)

Phần khác do tiêu thụ thực phẩm có nhiều chất purines như cá cá trích (anchovies), cá mòi (sardines), cá thu (mackerel), sò điệp (scallops), cá hồi (trout) một vài loại thịt như thịt bê, thịt heo, thịt gà tây; trong bộ phận nội tạng gia súc như tim, thận, óc; trong các loại bia rượu và vài loại rau như hạt đậu khô, măng, rau spinach. Có nghiên cứu cho hay purines trong rau trái cây không gây ra cao uric acid như thịt đỏ động vật.

Giảm bài tiết uric ở thận là lý do thông thường đưa tới cao chất này trong máu.

* Nguy cơ đưa tới thống phong

Sau đây là một số nguy cơ có thể đưa tới tăng uric acid và bệnh thống phong:

-Tuổi tác

Đa số nạn nhân của thống phong là nam giới, ở tuổi trung niên, nhưng bệnh có thể thấy ở mọi lứa tuổi.

-Phái tính

Khoảng 90% các trường hợp thống phong xẩy ra ở nam giới. Chỉ có khoảng từ 5-10% trường hợp thống phong ở phụ nữ mà đa số ở tuổi mãn kinh. Lý do là ở nữ giới, mức độ uric acid trong máu thấp hơn ở nam giới, nhưng tới tuổi mãn kinh lại lên cao.

-Dược phẩm

Một số dược phẩm có thể tăng uric acid như thuốc lợi tiểu nhóm hydrochlorothiazide (Esidrix, Hydro-D), viên aspirin để phòng tránh tai biến não hoặc cơn đau tim; thuốc ức chế tự miễn cyclosporine làm hư hao ống tiết niệu, giảm bài tiết urate; thuốc chữa bệnh Parkinson Levodopa; vitamin niacin

-Tiếp cận với chì

Theo kết quả một số nghiên cứu, tiếp cận lâu ngày với chì trong môi trường cũng là rủi ro đưa tới thống phong.

-Rượu

Tiêu thụ nhiều rượu làm tăng sự chuyển hóa purines ở gan và tăng sản xuất acid lactic mà acid này lại gây trở ngại cho thận trong việc thải uric acid khỏi cơ thể.

Theo kết quả nghiên cứu của bác sĩ Hyon K Choi và Gary Curhan, Trường Y tế Công Cộng Harvard, công bố trên tập san Arthritis and Rheumatism tháng 12 năm 2004, bia gây ra cơn đau thống phong nhiều gấp đôi rượu mạnh, rượu vang và tác dụng xảy ra trong vòng 24 giờ sau khi uống.

Cũng cần lưu ý là, uống tới say túy lúy càn khôn sẽ tức thì gây ra cơn đau ở người bị thống phong, dù là đang điều trị.

-Caffeine

Có nghiên cứu cho rằng nước uống có caffeine như cà phê, nước trà là rủi do đưa tới thống phong.

Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây do bác sĩ Hyon K. Choi, Đại học British Columbia, Vancouver công bố trong tạp chí Arthritis số tháng 6-2007 cho hay, uống 4 ly cà phê mỗi ngày có thể giảm rủi ro thống phong tới 40%.

Vỉ vậy, nếu cứ dùng một hai y cà phê như thường lệ có lẽ vô hại.

-Di truyền

Bệnh có tính cách di truyền. Theo thống kê, cứ bốn người bị thống phong thì một người có thân nhân mang bệnh này.

-Bệnh của cơ thể

Suy chức năng thận, mập phì, cao huyết áp, tiểu đường, thiểu chức năng truyến giáp, bệnh vẩy nến, một vài loại ung thư, thiếu máu vì hủy hoại hồng cầu nâng cao uric trong máu, đưa tới thống phong.

-Chần thương, mệt mỏi cơ thể, căng thẳng tinh thần, chề độ dinh dưỡng ít tinh bột đểu kích thích cơn viêm thống phong

* Triệu chứng

Thống phong có thể xảy ra bất thình lình mà không có dấu hiệu báo trước, thường là vào ban đêm hoặc sau khi ăn thực phẩm có nhiều purine, bị chấn thương cơ thể, uống rượu, trong người mệt mỏi.

Thường thường thì chỉ một khớp xương bị tấn công. Khớp sưng đỏ, đau, nóng với lớp da bóng loáng, mầu đỏ hoặc tím. Các đốt của ngón chân cái là nơi thường bị phong nhiều nhất, nhưng phong cũng có ở đầu gối, cổ tay, khuỷu tay. Ở nhiều người, ngón chân cái sưng đỏ bóng loáng như quả nhót chín mọng.

Bệnh nhân đau như đàn bà đau đẻ, đến nỗi một tấm chăn mỏng phủ lên người, một đôi tất hơi ôm vào chân cũng gây đau, nói chi đến chuyện mang giày, đi lại.

Danh y Hyppocrate gọi thống phong là “Bệnh-Không-Đi-Được”, vì khi bị cơn viêm đau, sự đi lại đều khó khăn giới hạn

Người bệnh đôi khi nóng sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, tim đập nhanh.

Bệnh có thể cấp tính, kéo dài từ vài ngày tới một tuần lễ hoặc mãn tính với nhiều khớp bị viêm sưng, nhiều u cục trên da, xung quanh khớp và tổn thương ở thận.

* Biến chứng

Nếu không chữa hoặc phòng ngừa, bệnh trở thành mãn tính, với nhiều khớp bị tấn công. Các khớp sẽ hư hao, biến dạng khiến cho sự cử động, di chuyển khó khăn. Các cục chứa muối urate mọc lên ở dưới da (tophi) nhất là ở tai.

Ngoài ra, uric acid trong máu quá cao có thể đưa tới sỏi thận.

* Định bệnh

Đôi khi rất khó để chẩn đoán bệnh thống phong vì các dấu hiệu không rõ rệt và có thể thấy trong các bệnh khác. Cao uric acid không đồng nghĩa với thống phong. Nhiều người dù lượng acid này lên cao mà họ vẫn không có dấu hiệu bệnh.

Để xác định bệnh. bác sĩ cần làm các việc như sau:

- Khám tổng quát cơ thể và tìm hiểu y sử bệnh nhân, gia đình.

- Lấy nước trong khớp bị viêm sưng để tìm tinh thể muối urate.

- Đo lượng uric acid trong máu và nước tiểu.

- Chụp X quang xương khớp để tìm khớp viêm sưng do muối urate tích tụ.

* Điều trị.

Mục tiêu của điều trị là làm sao giảm thiểu các cơn đau cấp tính, ngăn ngừa cơn đau tái phát và tránh sự gia tăng lượng uric acid trong máu.

Thuốc chống đau viêm không steroid như ibuprofen (motrim), indomethacin (Indocin), naproxen (anaprox), etodolac…ddều có thể kiểm soát các cơn đau cấp tính trong vòng 48 giờ.

Tác dụng ngoại ý của các thuốc này là cồn cào, xuất huyết bao tử, giảm chức năng của thận.

Khi các dược phẩm nêu trên không hiệu nghiệm, thuốc loại steroid có thể được dùng.

Thuốc cổ điển Colchicine có nguồn gốc cỏ cây vẫn còn được dùng và có tác dụng rất tốt với các cơn phong thấp cấp tính cũng như để ngăn sự tái phát của các cơn viêm đau.

Thuốc allopurinol (Zyloprim) được dùng khi acid uric lên cao vì tăng sản sản xuất.

Trường hợp uric acid lên cao vì thận giảm bài tiết, dùng thuốc loại probenecid (Benemid, Probalan) hoặc sulfinpyrazone.

Trong cơn đau, nên nằm nghỉ, nâng cao khớp viêm hơi cao hơn thân mìn một chút với cái gối nhỏ để tránh dịch nước ứ đọng ở khớp và giúp giảm viêm sưng.

Khi khớp bớt viêm, nên cử động khớp thường xuyên để tránh cứng khớp đồng thời sức mạnh các bắp thịt và gân ở xung quanh.

Chườm lạnh khớp bệnh vài lần trong ngày, mỗi lần 20 phút để giảm viêm sưng và đau.

* Kết luận

Y học cổ điển tây phương có câu nói “Once gouty, always gouty”, một khi đã bị thống phong thì thống phong suốt đời.

Tuy nhiên với các phương thức trị liệu hiện nay, thống phong có thể khuất phục được và người bệnh tiếp tục sống đời sống sinh động, sản xuất.

Ngoài ra, bệnh nhân có thể giảm thiểu các rủi ro gây bệnh, như là:

a.Giảm thiểu thực phẩm có nhiều purines.

b.Vận động cơ thể đều đặn.

c.Uống nhiều nước không có rượu. Nước giúp thận loại bỏ uric acid khỏi cơ thể, trong khi đó rượu bia lại tăng acid này.

d.Giảm cân nếu mập phì nhưng không giảm quá nhanh để khỏi bị thiếu dinh dưỡng, thống phong xuất hiện nhiều hơn.

đ.Duy trì huyết áp ở mức bình thường để tránh hư hao thận, giảm bài tiết uric acid.

e.Ăn nhiều rau trái cây tươi.

g.Tiêu thụ số lượng vừa phải sữa, pho mát.

h.Thử nghiệm acid uric khi đau khớp cấp tính để kịp thời sớm khám phá bệnh.

Thực hiện được như vậy thì ta tránh được thức giấc nửa đêm, ôm trái nhót đỏ hỏn ngón chân cái mà suýt soa kêu đau.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

11.30.2007

Nước không chỉ để giải khát


Khi khát, chúng ta uống nước. Nhưng có lẽ ít ai nghĩ đến vô số những “tiện ích” quan trọng của thứ chất lỏng đang chảy ngay bên trong cơ thể chúng ta. Chẳng hạn, nước giúp duy trì trí nhớ, ngăn ngừa viêm khớp, bệnh tim và ung thư, và còn ngăn béo phì nữa.

Quả thật không sai khi các nhà khoa học đã ví von nước như một “chất bôi trơn và bảo vệ động cơ”. Hơn thế nữa, ngoài chức năng giải khát thông thường, nước còn làm được nhiều việc giúp “bộ máy cực kỳ phức tạp” của chúng ta luôn vận hành tốt.

Khoảng 3/4 cơ thể con người được cấu thành từ nước. Và nếu như mỗi ngày chúng ta bị mất đi một lượng nước nhất định qua hơi thở, mồ hôi và bài tiết, thì đó là nước đang thực hiện chức năng giải độc. Nước còn có các tác dụng như:

Duy trì hoạt động trí tuệ

Bởi 80% mô não được cấu tạo từ nước nên khi bị thiếu hụt, trí nhớ ngắn hạn sẽ bị giảm, chúng ta sẽ kém tập trung trong mọi công việc, tựa như một chiếc xe sắp hết xăng. Lượng nước có trong não sẽ pha loãng các chất dịch vận chuyển protein và enzym, giúp chúng lưu thông tốt hơn, đến nuôi dưỡng các cơ quan trong cơ thể.

Nếu không đủ nước, các dưỡng chất sẽ bị ứ đọng, mọi hoạt động của chúng ta sẽ bị “đình trệ” trong một thời gian nào đó. Bằng chứng là khi quá khát, chúng ta hẳn sẽ không còn thiết tha với bất cứ công việc gì nữa mà chỉ muốn đi tìm một ngụm nước mà thôi. Đó chính là một tín hiệu báo động được gửi đi từ não.

Ngăn ngừa những chứng bệnh khó chữa trị

Viêm khớp, ung thư hay bệnh tim là những căn bệnh mà chúng ta có thể trông cậy vào nước như một “lá chắn” ban đầu. Trước hết, nước sẽ giúp tăng cường tính năng bôi trơn của chất hoạt dịch trong các ổ khớp, giúp chúng ta ít bị chứng viêm khớp hơn.

Kế đến, khi uống nhiều nước, cơ thể sẽ nhanh chóng loại thải được những độc tố, qua bài tiết. Lợi ích của quá trình này là làm giảm đi thời gian các chất độc tiếp xúc với bàng quang và đại tràng, nguy cơ ung thư các cơ quan đó sẽ giảm.

Và cuối cùng, khi tuần hoàn máu được bảo đảm thông suốt trên mọi “tuyến đường” trong cơ thể, quả tim của chúng ta sẽ luôn được giữ ở trạng thái khoẻ khoắn. Các chứng bệnh về tim mạch hẳn nhiên sẽ được ngăn chặn ngay từ đầu.

Bảo vệ răng

Sâu răng xuất hiện là do các mảng bám axít ăn mòn men răng. Và chính nước bọt là chất giúp trung hoà các axít này. Hơn nữa, nước bọt còn chứa các khoáng chất đặc biệt giúp răng luôn chắc.

Nước là một trong những thành phần chủ yếu tạo ra các chất dịch tiết quan trọng của cơ thể, trong đó có nước bọt. Thế cho nên, một khi trong khoang miệng chúng ta luôn có đủ một lượng nước bọt cần thiết, hàm răng ắt sẽ được bảo vệ.

Giúp giảm cân

Bạn đang ăn kiêng chăng? Và luôn cảm thấy đói bụng ư? Hãy cố uống nhiều nước. Nước không cung cấp calori hay chất béo, nhưng lại có tác động ngăn chặn sự ngon miệng, khiến chúng ta không còn cảm giác thèm ăn. Hẳn không ai phủ định một thực tế là, không tài nào ăn ngon cho được nếu như đã uống quá nhiều nước trước đó, khi đã “no nước”.

Mặt khác, nước giúp kích hoạt nhanh hơn quá trình trao đổi chất, tức quá trình đốt cháy năng lượng bên trong cơ thể. Vậy nên, uống nhiều nước là một phương pháp giảm cân rẻ tiền và dễ thực hiện nhất!

Trong cơ thể chúng ta, nước không làm nên tất cả, nhưng nước đã hỗ trợ một cách hoàn hảo nhất, giúp các chức năng sống của cơ thể được duy trì. Vì thế cho nên, dù theo định nghĩa lý thuyết, nước là “một chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi, không vị" nhưng nước không bao giờ là một chất lỏng vô tích sự. Uống nhiều nước không bao giờ là một hành động thừa.

Theo VnExpress.net

Uống nước ngọt có nguy cơ bị bệnh Tim nhiều hơn


Tin New York. Ngày 24 tháng 7-2007. Theo tạp chí Circulationtri1ch bản tin từ Hiệp Hội the American Heart Association.Thì những ai uống hơn 1 lon nước ngọt trong ngày thì dễ bị vướng phải chứng bệnh đau tim nhiều hơn so với những ai không uống nước ngọt. Nghiên cứu cho biết rằng áp huyết sẽ tăng, dễ bị tiểu đường, hay các chứng liên quan đến mạch máu. Bác sĩ Giảng Sư Dr Ramachandran Vasan của trường Boston University School of Medicine in Massachusetts nói " Không cần biết uống nước ngọt loại ngay cả loại Diet đều bị ảnh hưởng ."

Cuộc nghiên cứu này được sự hợp tác của 9000 người trong thời gian là 9 năm gồm những lứa tuổi khoảng trung niên gồm nam lẫn nữ. Kết quả cho thấy tỷ lệ vướng bệnh là 48% so với những người hoàn toàn không uống nước ngọt. Về mặt Y Học nghiên cứu này có tên là Framingham Heart Study (FHS) được giới Y Khoa quan tâm nghiên cứu từ năm 1948 nay đã trải qua thế hệ nghiên cứu của giới Y học để đi đến thông báo kể trên.

Theo Circulation

Tự cứu khi bị cơn đau tim ( heart attack )


Hãy tưởng tượng sau khi tan sở, đang lái xe tên xa lộ về nhà, tinh thần bạn mệt mỏi và căng thẳng ngày càng nhiều vì đường bị kẹt xe. Bỗng nhiên bạn cảm thấy đau nhói trong ngực, rồi cái đau lan qua hai cánh tay và đau tới trên hàm... Bạn cách nhà thương gần nhất chỉ có 5 dặm, nhưng bạn nghĩ mình không thể lái xe tới nơi kịp thời!

Bạn đã nghĩ rất đúng. Người bị Heart Attack thường chỉ có khoảng 10 giây trước khi bị ngất xỉu. Nếu không có ai bên cạnh, và không biết cách tự cứu mình thì rất nguy hiểm. Theo bài báo trong tờ Journal số 240 của nhà thương General Hospital Rochester, đây là giải pháp bạn cần làm ngay khi có triệu chứng bị Heart Attack, để đợi sự cấp cứu:

Ðừng quá sợ hãi để trở thành thụ động.

Hít vô một hơi sâu rồi ho ra thật mạnh, ho mạnh và dài càng tốt.
Làm lại như trên (hít vô sâu, ho ra mạnh) mỗi 2 giây đồng hồ. Tiếp tục thở và ho cho tới lúc tim bạn đập lại bình thường.
Khi hít vô sâu: Dưỡng khí sẽ vô phổi nhiều hơn.
Khi ho (thở ra) thật mạnh: Trái tim bị bóp lại, làm cho máu lưu thông dễ hơn.

Sau khi thấy tim đập lại bình thường, lái xe tới bệnh viện hoặc gọi ngay xe cứu thương để cầu cứu.

(Tiểu Ký ghi theo tài liệu trên báo Wall Street Journal và Internet, June 05.)

9.29.2007

Móng tay nói lên sức khỏe?

Bạn có biết những thay đổi trên móng tay có thể là dấu hiệu về tình trạng sức khỏe đang gặp vấn đề không? Khi bệnh xuất hiện có thể gây nên những thay đổi ở móng tay. Bác sĩ có thể dựa trên đó để chuẩn đoán bệnh.

Dưới đây là một vài dấu hiệu cần lưu ý:

Hiện tượng Beau’s line: là hiện tượng một vết lõm chạy ngang móng tay. Vết lõm xuất hiện khi mắc phải bệnh tim, sởi, viêm phổi.


- Móng tay cong lên như hình chiếc muỗng: Móng bị mềm và cong lên đến mức bạn có thể đựng được một giọt nước. Đó là biểu hiện thiếu chất sắt.

- Móng tay bị mềm: móng tay có thể bị tách rời ra khỏi ngón tay. Vấn đề này liên quan đến các bệnh: vẩy nến, phản ứng lại với một loại thuốc nào đó, bị thương, bị nấm hoặc viêm da do sử dụng hóa chất. Đôi khi cũng do tuyến giáp kém hoạt động, thiếu sắt hoặc bệnh giang mai.

- Hiện tượng Terry’s nails: móng màu trắng nhưng phía trên màu hồng đậm đến nâu. Đó là dấu hiệu của bệnh xơ gan, suy tim, bệnh tiểu đường, ung thư hoặc do tuổi già.


- Hiện tượng Half-and-Half (Lindsay’s nails): ngón tay có nửa phần trên màu trắng và nửa phần dưới màu hồng. Hiện tượng này xảy ra ở một số ít người và nó là dấu hiệu của bệnh về cật.



- Hiện tượng Clubbing: đầu ngón tay to hơn và bị móng tay cong lại bao quanh. Hiện tượng này do thiếu ôxy làm cho các mô liên kết mở rộng hoặc bạn đang mắc bệnh phổi. Nguy cơ mắc bệnh phổi lên đến 80%.