Featured 1

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 2

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 3

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 4

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 5

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

down

Showing posts with label Đề Kháng Ung Thư. Show all posts
Showing posts with label Đề Kháng Ung Thư. Show all posts

12.05.2008

Hoa quả được thúc chín bằng thuốc diệt chuột & hoá chất Trung Quốc ?


Hỏi: Tôi nghe đồn một số người dấm chuối bằng thuốc diệt chuột hay “hoa quả thúc chín tố” gì đó do Trung Quốc sản xuất. Xin hỏi lời đồn trên thực hư ra sao? Nếu chuối được dấm bằng loại thuốc đó, khi ăn vất vỏ đi liệu còn nguy hiểm không?(Phạm Châu Giang, Hưng Yên)

Trả lời:

Hầu hết các loại trái cây đều được thu hái khi chưa chín hoàn toàn và sau một thời gian (dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào loại trái cây và điều kiện môi trường - quan trọng nhất là nhiệt độ và độ ẩm) mà trái cây trở nên chín hoàn toàn. Đó là quá trình chín sau thu hoạch.

Nếu quả càng chín già, thời gian hoàn thành chín sau thu hoạch càng ngắn. Vì thế không nên thu hái khi quả còn non. Trong quá trình chín sau thu hoạch, trái cây thoát ra một lượng hơi nước và nhiệt khá lớn, nếu chồng chất chúng lên nhau dễ gây ra thối, nẫu. Nhiệt độ môi trường cao cũng thúc đẩy quá trình chín sau thu hoạch xảy ra mạnh hơn.

Để trái cây có chất lượng tốt nhất, nên tạo điều kiện để chúng chín sau thu hoạch trong điều kiện môi trường tự nhiên và được điều chỉnh điều kiện vi khí hậu với nhiệt độ, độ ẩm thích hợp là tốt nhất.

Tuy nhiên để thúc đẩy quá trình chín sau thu hoạch (cho trái cây chín mau hơn) người ta có thể dùng nhiều hoá chất khác nhau. Trước đây, người ta thường dùng đất đèn sinh ra khí axetylen (C2H2) có tác dụng thúc đẩy quá trình chín sau thu hoạch. Các loại trái cây hay được dấm bằng đất đèn hồi đó có cà chua, chuối. Nhưng nay đất đèn ít được dùng.

Thuốc diệt chuột – Không bao giờ

Các hoá chất diệt chuột như kẽm phosphur (Zn3P2), các hợp chất Ason (As2O3), Warfarin, v.v…, rất độc và có thể gây chết người khi ăn phải. Chúng cũng không có tác dụng thúc đẩy quá trình chín sau thu hoạch của trái cây. Vì thế khẳng định rằng việc nghe đồn dùng thuốc diệt chuột để dấm chuối hoặc các loại trái cây như bạn hỏi là hoàn toàn không có.

Còn việc dùng hoá chất do Trung Quốc sản xuất để dấm chuối hoặc các loại trái cây khác cho mau chín là có thật. Loại hoá chất này có tên theo phiên âm là HOA QUẢ THÚC CHÍN TỐ (HQTCT) - một hợp chất hữu cơ do nhiều xí nghiệp khác nhau ở Trung Quốc sản xuất. Loại nhập (lậu) sang nước ta có bán trên thị trường được đóng trong lọ 5ml.

Loại thuốc này có khả năng ăn mòn kim loại, có chất kích thích đối với mặt và da nên chú ý ngăn tránh sự tiếp xúc trực tiếp với thuốc. Sự phân giải của thuốc sẽ mất tác dụng khi pha trộn với chất kiềm. Qua kết quả thử nghiệm ở Việt Nam, các nhà khoa học rút ra các kết luận sau:

- HQTCT là một chất có tính acid và dễ bị ô xy hoá khi để ngoài không khí.

- Trái cây được thúc chín bằng HQTCT mau chín, cho màu sắc và cảm quan bên ngoài vỏ đẹp. Nhưng ăn thì chất lượng và hương vị thua xa so với để chín tự nhiên.

- Trái cây được thúc chín bằng HQTCT mau bị thối, nẫu hơn nhiều so với để chín tự nhiên.

- Mặc dù được quảng cáo là ít độc, nhưng đã nhúng hoá chất thì ít nhiều đều có hại cho sức khoẻ, kể cả chỉ nhúng ngoài vỏ. Tốt nhất là không nên dùng.

BS Hoài Hương

12.03.2008

Gia tăng ung thư phổi vì đầu lọc thuốc lá



Từ trước tới nay, người ta vẫn nghĩ đầu lọc có tác dụng lọc bớt chất độc hại của thuốc lá vào cơ thể. Nhưng theo tạp chí Healthday số ra ngày 6/9, các nhà khoa học Mỹ cho rằng sự xuất hiện của đầu lọc thuốc lá những năm 1950 đã kéo theo sự gia tăng các ca ung thư phổi cho đến tận ngày nay, khiến họ phải “đặt câu hỏi” đối với đầu lọc.

Theo thống kê của nhóm nghiên cứu, đầu những năm 50 của thế kỷ trước, chỉ có 1% thuốc lá đầu lọc được sử dụng. Tỷ lệ này đã lên đến 64% vào năm 1964, lên 95% năm 1986 và 97% vào năm nay. Điều đáng ngại là mức tăng này cũng song hành với số ca ung thư phổi. Vào năm 1950, bệnh chỉ chiếm 5% các trường hợp ung thư, nhưng từ những năm 1960 đã tăng đột biến, hiện chiếm đến 62%.

Từ những con số trên, các nhà khoa học khẳng định có sự liên quan giữa việc sử dụng đầu lọc trong thuốc lá với sự bùng phát bệnh ung thư phổi. Theo họ, đầu lọc làm cho người hút thuốc hít những hơi sâu hơn và lớn hơn, do đó lượng độc tố đi vào phổi nhiều hơn.

(Theo VnMedia)

9.03.2008

Cảnh báo về nguy cơ ung thư do ăn khoai tây chiên


Thủ phạm ở đây là acrylamide, một hóa chất dùng trong nhiều ngành công nghiệp, có khả năng gây ung thư ở người, đồng thời làm tổn thương hệ thần kinh nếu tiếp xúc với liều lượng lớn.

Chúng ta đã từng nghe nhiều cảnh báo về nguy cơ ung thư do ăn khoai tây chiên. Đó chỉ là một phần nhỏ của vấn đề. Thực tế là nhiều loại thực phẩm tưởng như “hiền lành”, vô hại khác như bánh mỳ, bánh quy… cũng có thể dẫn đến ung thư.

Sự lo ngại về acrylamide trong thực phẩm dấy lên từ năm 2002, khi Cơ quan Quản lý Thực phẩm Quốc gia Thụy Điển tìm thấy độc tố này trong một số loại thực phẩm chứa tinh bột khoai tây được chế biến ở nhiệt độ cao.

Nghiên cứu của các nhà khoa học Na Uy, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ sau đó đã làm rõ thêm vấn đề: Không chỉ có tinh bột khoai tây mà cả các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật, giàu carbon hydrate, ít protein khác khi được chế biến bằng các phương pháp đòi hỏi nhiệt độ cao (>120oC) như rán, quay, nướng, đều xuất hiện acrylamide. Hiện tượng này không thấy xảy ra ở các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật và các thực phẩm có nguồn gốc thực vật nhưng chế biến ở nhiệt độ thấp như luộc, hấp.

Nguyên nhân là do khi bị làm nóng ở nhiệt độ cao, asparagine (một loại axit amin) và đường tự nhiên trong thực phẩm là thực vật sẽ phản ứng với nhau để tạo ra acrylamide.

Lượng độc tố phụ thuộc vào loại thực phẩm, nhiệt độ và thời gian chế biến. Nhiệt độ càng cao, thời gian càng lâu thì acrylamide càng tăng. Đứng đầu trong danh sách thực phẩm có lượng acrylamide cao nhất là khoai tây chiên (bao gồm cả các loại tự chế biến ở gia đình và loại đóng gói sẵn), cà phê, bánh ngọt, bánh quy, bánh mỳ các loại.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương LHQ (FAO) đềucoi acrylamide trong thực phẩm là mối lo ngại nghiêm trọng bởi nó có liên quan với nguy cơ ung thư vú và ung thư tế bào thận.

Cho đến nay chưa có phương pháp nào loại bỏ hoàn toàn acrylamide ra khỏi thực phẩm. Nhưng bạn có thể giảm bớt lượng độc tố này bằng một số phương pháp sau:

- Đối với các loại thực phẩm có nguy cơ cao như khoai tây, bánh mỳ, bánh quy, bánh ngọt, bánh phồng tôm… khi chế biến tuyệt đối không để quá già, không ăn các phần bị cháy vì những phần này tập trung nhiều acrylamide nhất.

Không rán hoặc nướng lại nhiều lần.

Không nên ăn quá nhiều các loại thực phẩm có nguy cơ cao cùng 1 lúc.

- Riêng đối với khoai tây, nên cắt lát và ngâm vào nước từ 15 – 30 phút trước khi rán.

Không nên bảo quản khoai tây trong tủ lạnh vì sẽ làm tăng lượng đường trong khoai, dẫn đến tăng acrylamide khi chế biến.

Theo Khoa học & Đời sống

7.27.2008

Tầm quan trọng và sự cần thiết của nội soi tiêu hoá



Một trong những xét nghiệm về sức khoẻ được giới chuyên môn khuyến cáo thường xuyên tại Hoa Kỳ là nội soi tiêu hoá (Colonoscopy), để kịp thời phát hiện hoặc điều trị các căn bệnh nguy hiểm liên quan đến đừơng tiêu hoá mà quan trọng nhất là ung thư. Tuy nhiên, việc này chưa mấy được chú trọng tại Việt Nam, nếu như không muốn nói là còn quá lạ lẫm đối với rất nhiều người.

Nội soi tiêu hoá là gì? Tầm quan trọng và sự cần thiết của nó ra sao ? Khi nào cần phải làm nội soi tiêu hoá? Mời quý vị cùng tìm hiểu qua phần trình bày của Bác sĩ Bùi Xuân Dương, nhiều năm kinh nghiệm trong khoa tiêu hoá-dạ dày, hiện đang hành nghề tại California :

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Nội soi tiêu hoá là một khi mình dùng một máy quay phim cho vào bên trong đường ruột của mình để mình nhận diện ra đựoc những cái hình thù tế bào thay đổi trong hệ thống tiêu hoá. Mình cho một ống nhỏ vào trong cái bao tử, vào trong cái đường ruột thì lúc đó có thể nhận diện được cái hình của cái màn các tế bào trong cơ thể của chúng ta trên cái màn ảnh tivi.

Và từ nhiều năm qua thì với những tiến bộ vượt bực của y khoa cũng như của khoa học nói chung thì bây giờ người ta có những cái tehnique (kỹ thuật), họ chỉ bấm một vài cái nút có thể đổi ánh sáng của cái đèn thì nhìn ngay có thể nhận diện được đó là tế bào do tế bào bị mạch máu sưng vù nhiều quá, hay là do tế bào có thể là tiền ung thư.

Truy tìm những tế bào ung thư

Trà Mi : Dạ vâng. Như vậy, nói một cách tóm tắt thì nội soi tiêu hoá là soi bao tử và soi ruột để truy tìm những tế bào ung thư hoặc những bất thường trong cơ quan tiêu hoá của mình, phải không ạ?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Vâng. Thưa đúng ạ.

Trà Mi : Xin Bác Sĩ cho biết sự cần thiết cũng như sự lợi ích của việc nội soi tiêu hoá.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Trước hết có lẽ chúng ta nên chia làm hai phần, thưa cô Trà Mi cũng như quý vị. Trước hết nói về ruột già chẳng hạn thì ruột già là một trong những nơi dễ xuất hiện ung thư rất là quan trọng cho cả hai phái nữ và nam. Đối với quý ông thì cái ung thư nguy hiểm đầu tiên và thường xuyên nhất là ung thư phổi tại vì có lẽ là do thuốc lá, và ung thư thứ hai là ung thư ruột già.

Đối với quý ông thì cái ung thư nguy hiểm đầu tiên và thường xuyên nhất là ung thư phổi tại vì có lẽ là do thuốc lá, và ung thư thứ hai là ung thư ruột già. Còn về phụ nữ thì ung thư quan trọng nhất đầu tiên và thường xuyên nhất là ung thư , sau đó là ung thư ruột già.

Còn về phụ nữ thì ung thư quan trọng nhất đầu tiên và thường xuyên nhất là ung thư vú, sau đó là ung thư ruột già. Vì vậy mà khi soi ruột già, người ta khuyên là từ 50 tuổi trở lên, tức là kể cả đàn ông lẫn đàn bà, mặc dù không có triệu chứng gì cả, cũng nên đi soi ruột già để truy tầm ung thư.

Còn vấn đề soi bao tử thì thường thường người ta có tính cách định bệnh nhiều hơn là chữa bệnh, chỉ có một số trường hợp đặc biệt có nhiều bệnh nhân ví dụ chẳng hạn gan của họ bị chai; gan họ bị chai thì máu thay vì đi qua gan nhưng qua gan không được thì nó kiếm đường quay trở lại về tim bằng cách dùng những mạch máu trong thực quản. Vì vậy khi mạch máu trong thực quản bị sưng to quá nó có thể bị vỡ ra và bệnh nhân có thể ói ra máu. Đây là một tình trạng rất nguy hiểm.

Đa số những bệnh nhân ói ra máu vì những mạch máu trong thực quản bị vỡ ra mà không được cấp cứu đúng cách thì họ có thể lìa trần. Thành ra trong trường hợp đó chúng tôi cũng thường soi bao tử và khi mà soi bao tử thì những mạch máu đó mình có thể tiêm thuôc vô cho nó cầm máu lại, và trong lúc soi mình có thể cột nó lại luôn.

Một số các bệnh nhân khi ăn uống thất thường có nhiều khi họ mất máu, có nhiều khi họ đau bụng, xuống ký một cách kỳ lạ, thì chúng tôi cũng dùng phương pháp nội soi bao tử để xem bên trong có bị lở, bị ung thư hay không. Người Việt Nam chúng ta có xác suất ung thư bao tử cao hơn người da trắng rất là nhiều.

Triệu chứng

Trà Mi : Nhưng mà khi có những triệu chứng nào thì mới bắt đàu nghĩ tới chuyện đi nội soi tiêu hoá, hay là cứ đúng vào lớp tuổi ngoài 50 thì nên thực hiện xét nghiệm này?
Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Thực ra thì đúng như vậy, thưa cô. Truy tầm nghĩa là mình khám phá ra bệnh trước khi bệnh nó khám phá ra mình, thì cái vấn đề là 50 tuổi trở lên là nên soi, nên thôi chứ không bắt buộc phải soi. Nếu không soi thì có sao không? Có lẽ không sao cả, nhưng mà nếu có sao thì cũng phiền lắm, thưa cô Trà Mi.

Nếu mình có triệu chứng sớm hơn 50 tuổi, trong trường hợp đối với ruột già là bệnh của người lớn tuổi, người ta thấy là 90% những người ung thư ruột già là hơn 50 tuổi. Nhưng mà cũng có nghĩa là 10% dưới 50 tuổi. Nghĩa là dưới 50 tuổi không có nghĩa là không bị ung thư ruột già.

Vấn đề là nếu mình còn trẻ thì nên truy tầm ung thư ruột già nếu mà có những triệu chứng sau đây: (1) Vì lý do nào đó mình mất máu mà không biết tại sao mình thiếu máu. Có nhiều người khi thấy thiếu máu thì thay vì đi kiếm lý do vì sao mình thiếu máu lại đi uống thuốc bổ máu.

(2) Vấn đề tiêu hoá của mình thay đổi. Tự nhiên hồi trước tới giờ mỗi ngày mình đi vệ sinh một lần mà thôi, bây giờ tự nhiên mình đi nó thay đổi lúc thì bón luc thì tiêu chảy, hoặc là khi thỉnh thoảng trong phân có máu, hoặc là bụng mình đau một cách kỳ lạ mà mình không hiểu, hoặc trong gia đình có người bị ung thư ruột già một cách tương đối sớm. Một số các người ung thư nó có thể liên quan tới nhau, ví dụ ung thư vú, ung thư tử cung và ung thư buồng trứng thì nó có thể song song với ung thư ruột già. Vì vậy những người ung thư buồng trứng thì nên đi soi ruột già để coi mình có bị ung thư ruột già hay không.

Trà Mi : Theo Trà Mi được biết những người cao niên đi soi ruột thì thường phát hiện những bướu nhỏ trong ruột.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Ấy là rất quan trọng bởi vì khi mình soi thì nếu mình khám phá ra những cục bướu trong giai đoạn tiền ung thư, bướu còn nhỏ thì mình có thể cho sợi chỉ vô mình cột lại và đốt nó, hoặc mình lấy nó ra bằng phương pháp sinh thiết, thì làm như vậy mình tránh được hậu quả sau này.

Những cái bướu như cô Trà Mi vừa mới nói đó, mình cắt nó và lấy nó đi thì mình sẽ ngăn chản được đà phát triển của nó. Nếu mình để yên trong đó thì thông thường chừng 5 đến 7 năm sau thì những cái bướu đó sẽ biến thành ung thư ruột. Và một khi nó lớn quá thì có thể phải mổ.

Tái nộI soi

Trà Mi : Thưa Bác Sĩ, có hai trường hợp mình phải đi nội soi tiêu hoá : (1) Khi có những triệu chứng bất thường về tiêu hoá, (2) Ngoài độ tuổi 50. Nhưng sau khi đi nội soi tiêu hoá lần đầu tiên thì giới chuyên môn có khuyên hàng năm nên tái nội soi một lần nữa hay là cái mức độ thường xuyên là bao lâu ạ?

Nếu mình có triệu chứng sớm hơn 50 tuổi, trong trường hợp đối với ruột già là bệnh của người lớn tuổi, người ta thấy là 90% những người ung thư ruột già là hơn 50 tuổi. Nhưng mà cũng có nghĩa là 10% dưới 50 tuổi. Nghĩa là dưới 50 tuổi không có nghĩa là không bị ung thư ruột già.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Vâng. Đây là câu hỏi mà rất nhiều bệnh nhân thắc mắc, thưa cô Trà Mi. Thông thường, nếu soi mà không thấy gì hết, nghĩa là ruột già của mình hoàn toàn bình thường, thì họ khuyên là 10 năm sau soi lại một lần. Nếu mà soi thấy có cục bướu, mà cục bướu đó lớn hơn 1 centimet thì họ khuyên là 3 năm soi lại 1 lần.

Nếu chỉ có cục bướu nhỏ thôi thì 5 năm soi lại một lần. Nó hơi rắc rối một chút! Nếu một bệnh nhân có ung thư phải mổ thì một năm sau phải soi lại một lần. Nhưng nói một cách tổng quát, nếu soi mà không thấy gì cả thì 10 năm sau có thể soi lại một lần.

Trà Mi : Dạ vâng. Những cục bướu nhỏ một khi đã được cắt bỏ rồi thì nó có mọc trở lại không, thưa Bác Sĩ? Hay là mình có thể an tâm là đường tiêu hoá của mình coi bộ bảo đảm rồi?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Vâng. Chỗ đó nó không mọc lại nữa, nhưng mà nó có thể mọc lại ở chỗ khác bởi vì cái đặc tính di truyền.

Trà Mi : Dạ. Như vậy là cũng vẫn cần thiết phải đi nội soi thường xuyên.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Vâng ạ. Bởi vậy chúng tôi vẫn nói đùa với những bệnh nhân cứ 3 năm soi lai một lần thì thấy bướu mọc lại, rằng người ta trồng cây trồng cối thì bác cứ trồng bướu!

Chuẩn bị

Trà Mi : Dạ vâng. Nhiều người thắc mắc là nội soi tiêu hoá có đau đớn lắm không và cần phải chuẩn bị những bước như thế nào về thể chất cũng như tâm lý?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Bệnh nhân hay hỏi tôi câu đó. Thực ra cái đau đớn nhất thì cũng giống như lúc cắm cái kim truyền nước biển thôi. Cắm cái kim truyền nước biển là đau nhất thôi. Trước khi soi thì chúng tôi sẽ tiêm cho bệnh nhân một số các loại thuốc ngủ. Đây không phải là thuốc gây mê mà là thuốc làm cho bệnh nhân thiu thiu ngủ một chút thôi.

Đa số họ vừa nhắm mắt xong thì mở mắt ra họ kêu "Ủa, soi xong hồi nào vậy?" Đa số các bệnh nhân không hay biết gì cả. Lúc soi thì một số bệnh nhân cảm thấy hơi thốn thốn một chút nhưng mà trường hợp đó rất là hiếm.

Trà Mi : Dạ. Tức là không đau đớn gì lắm.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Thường thì không đau.

Thông thường, nếu soi mà không thấy gì hết, nghĩa là ruột già của mình hoàn toàn bình thường, thì họ khuyên là 10 năm sau soi lại một lần. Nếu mà soi thấy có cục bướu, mà cục bướu đó lớn hơn 1 centimet thì họ khuyên là 3 năm soi lại 1 lần. Nếu chỉ có cục bướu nhỏ thôi thì 5 năm soi lại một lần. Nó hơi rắc rối một chút! Nếu một bệnh nhân có ung thư phải mổ thì một năm sau phải soi lại một lần.

Trà Mi : Dạ. Nhưng mà có cần phải chuẩn bị ăn uống như thế nào, rồi thuốc men ra sao, trước và sau khi đi nội soi, thưa Bác Sĩ?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Vâng. Cái đó là cái khổ nhất của việc đi soi ruột già khi mà phải uống thuốc xổ. Thông thường có những người bón quanh năm suốt tháng thì khi cho họ uống thuốc xổ thì họ thích lắm. Nhưng mà thông thường thì nửa ngày trước khi soi, ví dụ Thứ Hai mình đi soi thì sáng Chủ Nhật chúng tôi vẫn cho bệnh nhân ăn sáng bình thường, buổi trưa thì ăn thức ăn nhẹ - không nên ăn thịt. Chúng tôi hay khuyên là ăn miến mà không có thịt thà gì hết.

Khoảng chừng 2-3 giờ chiều trở đi thì có thể uống thuốc xổ. Với những thứ thuốc mới bây giờ thì chỉ cần uống ba bốn ly nước thuốc thôi, có thể pha với nước cam hay nước táo cho dễ uống. Trong thời gian uống thuốc xổ thì uống thêm 2 lít nước nữa, bất cứ nước gì cũng được, miễn sao nó trong thôi chẳng hạn nước táo, nước xoài, nước bưởi, v.v.

Thì sau khi uống thuốc xổ thì mình đi cầu khoảng 10 lần tới 12-13 lần, nó có thể làm cho bệnh nhân hơi khó chịu một chút. Rồi sau 12 giờ đêm trở đi thì không được ăn uống gì cả. Hôm sau, đánh răng rửa mặt, đi soi, thì phải nghỉ một ngày làm việc, tại vì ngày đi soi bệnh nhân đuợc tiêm một chút thuốc ngủ nên khi về nhà thì bệnh nhân hơi ngầy ngật một chút, nên chúng tôi khuyên bệnh nhân không nên lái xe tại vì có thể nguy hiểm cho tính mạng.

Trà Mi : Nhưng sau khi soi rồi thì về có đựoc ăn uống lại bình thường ngay lập tức không?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Thông thường soi xong chúng tôi hay cho bệnh nhân ăn nhẹ crackers ngay tại chỗ cho bệnh nhân đỡ đói.

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Về đến nhà thì họ ăn uống bình thường thôi.

Trà Mi : Dạ vâng. Thưa Bác Sĩ , ngoài ra thì có những gì mà bệnh nhân cần lưu ý sau khi đã thực hiện xong nội soi tiêu hoá? Ăn uống thì có cần những chất quá cứng hay như thế nào?

Bác sĩ Bùi Xuân Dương : Thông thường nếu soi ruột già mà hoàn toàn bình thường thì họ về sống bình thường như trước. Nếu có những cục bướu lớn lắm mà chúng tôi đốt thì lúc đó chúng tôi có khuyên bệnh nhân có lẽ không nên uống Aspirin trong vòng một tuần lễ. Chứ còn ăn uống thì không cần phải thay đổi. Xin thành thật cảm ơn quý vị đã nghe chúng tôi. Xin gửi quý vị một lời chúc an bình hạnh phúc

7.07.2008

MỘT NỮ KHOA HỌC GIA ĐÃ TỰ CHỮA LÀNH BỊNH UNG THƯ BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẢI THIỆN ĂN UỐNG


Nữ Giáo sư Jane Plant là một khoa học gia nổi tiếng của Anh Quốc. Bà bị bịnh ung thư nhũ hoa từ năm 1987. Thông thường thì một bịnh nhân ung thư khó mà sống sót được khi bịnh đã tái phát đến lần thứ hai. Tuy nhiên nhờ kiến thức khoa học sẵn có cũng như với sự điều trị và chăm sóc nhiệt tình của các bác sĩ chuyên khoa thượng thặng, bà đã kéo dài được mạng sống. Dầu vậy bịnh của bà đã tái phát đến năm lần, rồi cuối cùng đã lan đến hệ thống bạch huyết trong cơ thể. Trước tình trạng nguy ngập đó, bà vẫn không chịu bó tay chờ chết mà cương quyết tự chữa bằng cách ăn uống có phương pháp. Cuối cùng bà đã lành bịnh. Bà đã cho xuất bản quyển sách Your Life in Your Hands (Mạng sống trong tay của bạn) dể kể lại những kinh nghiệm cá nhân mà bà đã trải qua để quảng bá cho tất cả mọi người. Nhận thấy đây là một tài liệu rất hữu ích nên chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý vị độc giả tham khảo.

Sau khi bịnh ung thư nhũ hoa của tôi tái phát đến lần thứ năm, tôi nghĩ tôi sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là phải chết hoặc cố gắng tìm một phương pháp khác để tự chữa cho mình. Tôi là một khoa học gia, dĩ nhiên tôi đã biết chứng bịnh quái ác này hiện nay đã cướp mất mạng sống của một trong số 12 người phụ nữ tại Anh Quốc và Úc Đại Lợi. Tôi đã cam lòng chịu giải phẫu mất đi hết một cái vú và đã được chữa trị bằng quang tuyến liệu pháp. Tôi cũng đang được trị liệu bằng chemotherapy và được chăm sóc bởi những y sĩ chuyên khoa tài giỏi. Nhưng cuối cùng tôi cũng chắc chắn sẽ phải chết mà thôi.

Tôi đã có chồng, sở hữu một ngôi nhà xinh đẹp và có hai đứa con ngoan ngoãn dễ thương mà tôi rất yêu quý. Tôi mong muốn được sống còn. May thay niềm khao khát mãnh liệt đó đã giúp tôi có thêm nghị lực khám phá được rất nhiều sự kiện mới mẻ mà hiện thời một số khoa học gia khác cũng đã có cùng chung một số hiểu biết như tôi.

Những người có liên hệ đến bịnh ung thư nhũ hoa hẵn đều biết những trường hợp nguy hiểm khác cũng sẽ xảy ra cho chính bản thân người bịnh. Đó là sự già nua đến sớm; sắc đẹp chóng tàn; tuổi tắt kinh đến muộn vân vân, tất cả đều ở ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tôi, những trường hợp nguy hiểm vừa kể có thể khống chế dễ dàng. Đó là chúng ta phải có nghị lực cương quyết thay đổi hoàn toàn một vài nếp sống mà nhất là thói quen ăn uống hàng ngày. Điều mà tôi muốn khẳng định cùng quý vị là bịnh ung thư nhũ hoa có thể chữa được vì chính tôi là một bịnh nhân đã sống còn qua cơn nguy hiểm và sẽ kể cho quý vị biết những kinh nghiệm hữu ích đó.

Khi tôi bắt đầu bị bịnh và đang điều trị bằng chemotherapy thì chồng tôi là Peter, cũng là một khoa học gia, làm việc tại Trung Quốc đã trở về. Anh có mang về một số tài liệu và một số thuốc đặt (suppositories) bằng thảo dược, nghe nói là hay lắm. Chồng tôi mô tả đây là loại thuốc trị bịnh ung thư nhũ hoa đại tài tại Trung Quốc. Mặc dầu bịnh tình của tôi lúc bấy giờ thật là đáng ngại, nhưng cả hai chúng tôi không khỏi phì cười. Tôi bảo nếu quả thật đây là một loại thuốc công hiệu thì chắc tại Trung Hoa rất hiếm thấy phụ nữ bị bịnh ung thư nhũ hoa lắm. Mà thật vậy! Theo thống kê của các nhà khoa học thì tại khắp lãnh thổ Trung Quốc hiếm thấy phụ nữ mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Trung bình thì cứ mười ngàn phụ nữ mới có một người mắc phải chứng bịnh quái ác này. Trong khi ở Hoa Kỳ và các nước Tây Phương thì trung bình cứ 12 phụ nữ lại có một người mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Sự kiện không phải vì dân chúng Trung Hoa sinh sống trong vùng nông thôn nhiều hơn nên không bị nạn ô nhiễm môi trường các loại như dân chúng trong thành phố. Bằng chứng tại Hồng Kông, một đô thị có mật độ dân cư đông đảo và cũng học đòi theo nếp sống Tây phương, nhưng cứ mười ngàn phụ nữ mới có 34 người chết vì bịnh ung thư nhũ hoa. Tỷ số này vẫn còn thắng xa Hoa Kỳ và các nước Tây Phương nhiều lắm. Dân chúng Nhật Bản tại hai thành phố Hiroshima và Nagazaki cũng có tử suất tương tợ. Vì hai thành phố này bị nhiễm phóng xạ nguyên tử do Hoa Kỳ ném xuống từ thời Đệ Nhị Thế Chiến. Liên quan đến dân cư trong thành phố mắc bịnh ung thư cao, người ta cũng quan tâm đến sự quan hệ giữa phóng xạ tuyến nguyên tử và mầm móng gây ra bịnh ung thư như thế nào.

Song, thống kê cho thấy nếu phụ nữ Tây Phương mà di cư đến hai thành phố nhiễm nhiều phóng xạ nguyên tử ở Nhật Bản nói trên thì xác suất bị bịnh ung thư nhũ hoa lại càng cao hơn dân chúng dịa phương đến một nữa.

Thật rõ ràng, không phải chỉ có môi trường chung quanh ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra bịnh ung thư các loại, mà chính yếu là nếp sống cá nhân và thói quen ăn uống. Tôi cũng còn khám phá biết thêm sự cách biệt quá xa về tỷ số mắc bịnh ung thư nhũ hoa giữa dân chúng Tây Phương và Đông Phương không phải do nguyên nhân của sự di truyền huyết thống. Các chuyên gia nghiên cứu khoa học đã chứng minh cho thấy dân Trung Hoa và Nhật Bản di cư sang các nước Tây Phương, chỉ một hoặc hai thế hệ sau là sẽ có tỷ số mắc bịnh ung thư ngang hàng với dân chúng bản địa. Sự kiện này cũng đã xảy ra tại Hồng Kông là người Trung Hoa nào bắt chước theo nếp sống y hệt như người Tây Phương thì cũng sẽ có nguy cơ bị các chứng bịnh nguy hiểm tương tợ. Vì vậy người Tàu có một câu ngạn ngữ dí dỏm gọi bịnh ung thư nhũ hoa là "chứng bịnh của những phụ nữ giàu có". Lý do vì ở Trung Quốc chỉ có những người giàu có mới bắt chước theo lối ăn uống của người Tây Phương mà thôi. Phần đông người Trung Hoa gọi các thức ăn có nhiều chất béo động vật như sữa và các sản phẩm của sữa như bơ, phó mát, sô cô la vân vân là "đồ ăn Hồng Kông". Vì đó là các thức ăn uống du nhập từ Anh quốc vào lãnh địa này từ thuở xa xưa mà trong quá khứ rất hiếm và quý tại lục địa Trung Quốc.


Do những dẫn chứng trên đây, tôi nghĩ và cũng để ý thấy bịnh ung thư nhũ hoa xảy ra cho chính cá nhân tôi cũng thường thấy xảy ra trong giới phụ nữ trung lưu và giàu có tại các xứ Tây Phương. Qua nghiên cứu, tôi cũng đã biết được đa số những người đàn ông bị bịnh ung thư tuyến tiền liệt cũng ở trong trường hợp tương tợ như vậy. Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO), tỷ số những người đàn ông tại Trung Quốc mắc bịnh ung thư tuyến tiền liệt không đáng kể. Trung bình trong một triệu người chỉ có 5 người mắc phải bịnh này mà thôi. Tại các nước Tây Phương, tỷ số này cao gấp 70 lần nhiều hơn ở Trung Quốc và cũng phần đông xảy ra trong giới đàn ông trung lưu và giàu có. Tôi cũng nhớ tôi đã từng hỏi chồng tôi, một khoa học gia đã trở về từ Trung Quốc, rằng tại sao người Trung Hoa sinh sống như thế nào mà phụ nữ ít bị bịnh ung thư nhũ hoa vậy? Chúng tôi đã lợi dụng cơ hội này để tra cứu các thống kê cập nhật của các khoa học gia và cuối cùng đã tìm ra được giải đáp là người Tây Phương đã ăn rất nhiều chất béo. Các nghiên cứu cho thấy trong thập niên 1980, trung bình người Trung Hoa tiêu thụ 14 phần trăm calories lấy từ chất béo, so với 36% của người Tây Phương. Tuy nhiên trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi cũng đã ăn rất ít chất béo nhưng nhiều chất xơ. Vả lại tôi được biết đối với cơ thể của người lớn, hấp thụ nhiều chất béo chưa hẳn đã gia tăng nguy cơ bị bịnh ung thư nhũ hoa của phụ nữ, dựa theo các báo cáo trong quá trình nghiên cứu 12 năm qua.

Một hôm khi cùng làm việc với chồng tôi, tôi sực nhớ không biết một trong hai chúng tôi trước đây ai đã có lần bảo là người Trung Hoa không có dùng sữa và các sản phẩm của sữa. Thật là khó giải thích vì đây không phải là một sự kiện được nghiên cứu bằng khoa học. Tuy nhiên trên thực tế người Trung Hoa ít uống sữa và cơ thể của họ cũng khó chấp nhận tiêu hóa sữa. Tôi nhớ có một thời gian đã cùng làm việc nghiên cứu với một khoa học gia là người Trung Quốc. Vị này bảo rằng sữa chỉ dành cho trẻ con dùng, cho nên cô rất nhã nhặn từ chối các bữa ăn trưa nào có thực phẩm bơ sữa do tôi mời mọc. Theo thói quen của người Trung Hoa, trẻ con cũng không được nuôi lớn bằng sữa bò mà chỉ cho bú bằng sữa mẹ. Nếu vì sự bất tiện nào đó mà người mẹ không cho con bú được, có thể thuê mướn một bà vú để phụ trách công việc này.

Theo truyền thống văn hóa, người Trung Hoa có thành kiến xem việc người Tây Phương tiêu thụ sữa và các phó sản của sữa rất kỳ lạ. Tôi còn nhớ trong một buổi khoản đãi phái đoàn khoa học gia Trung Quốc sau thời điểm cuộc Cách mạng Văn Hóa không lâu vào thập niên 1980. Theo sắp xếp của phòng ngoại vụ, sau bữa ăn, chúng tôi đã mời họ dùng tráng miệng bằng kem . Họ hỏi thức ăn này được chế biến bằng gì và cuối cùng đã lịch sự từ chối vì nó được làm bằng sữa. Trong khi chúng tôi rất thích món khoái khẩu này.

Sữa (thông thường là sữa bò), theo tôi nghiên cứu là loại thực phẩm có nguyên nhân gây ra các loại dị ứng nhiều nhất. Hơn 70 phần trăm dân số trên thế giới không tiêu thụ được sữa vì tạng phủ của họ không tiêu hóa được đường lactose. Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng đây là trạng thái bình thường của những người lớn chớ không phải là sự yếu kém nào đó của cơ thể. Phải chăng loài người đã dùng sai loại thực phẩm không phù hợp với bản chất thiên nhiên.

Trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi đã dùng rất nhiều sữa ít chất béo (skim milk), phó mát và sữa chua (yoghurt). Tôi đã coi những thứ đó như là nguồn cung cấp chất đạm dồi dào. Tôi cũng đã ăn thịt bò nạc để bồi dưỡng. Sau khi bịnh tái phát lần thứ năm và trong thời kỳ điều trị bằng chemotherapy, tôi lại ăn sữa chua được biến chế bằng nguyên liệu hữu cơ để giúp cho bộ máy tiêu hóa được khỏe mạnh bằng cách tăng thêm những vi khuẩn hữu ích cần thiết.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu hồi năm 1989, Bác sĩ Daniel Cramer thuộc trường Đại học Harvard ở Hoa Kỳ đã theo dõi và ghi chú hồ sơ của rất nhiều phụ nữ liên hệ đầy đủ từ chi tiết ăn uống của họ. Kết quả cho thấy sữa chua cũng có ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra các chứng bịnh ung thư noãn sào của nữ giới. Sau đó, chồng tôi và tôi, đã dựa theo thói quen ăn uống của người Trung Hoa, đã từ bỏ sữa bò và tất cả những sản phẩm nào có liên quan đến sữa, kể cả bánh ngọt và súp có thành phần chế biến bằng sữa ở trong đó. Mỗi lần đến siêu thị mua đồ ăn, tôi là người đọc rất cẩn thận công thức. Sau khi bịnh tái phát lần này, tôi cương quyết theo dõi kết quả một cách chặt chẽ. Các bác sĩ và y tá khuyên tôi nên ăn uống bình thường gồm thịt, cá, trứng và sữa trở lại như xưa để bồi bổ. Nhưng tôi khước từ và tự mình chủ động theo dõi kết quả của sự chữa trị có hữu hiệu hay không? Thế rồi sau một loạt trị liệu bằng chemotherapy lần nữa, tôi hoàn toàn chả thấy có tiến bộ gì. Cục bướu vẫn còn y nguyên hình dáng và kích thước như cũ. Sau khi tôi từ bỏ sữa và các loại sản phẩm có sữa độ vài hôm thì cục u bắt đầu teo dần. Một tuần lễ sau, cục bướu ở cổ bắt đầu ngứa, sau đó nó mềm dần và thu nhỏ hình dạng lại. Trên đồ thị theo dõi, lằn ghi chú có chiều hướng đi xuống và cuối cùng nó xuống sát lằn ngang ở phía dưới (tức 0 độ).

Một buổi chiều thứ Bảy, sáu tuần lễ sau khi tôi bỏ luôn tất cả thành phần của sữa trong thực đơn của tôi nghĩa là không còn dính dáng gì tới thức ăn có nguồn gốc động vật, tôi ngồi thiền một tiếng đồng hồ và sau đó kiểm tra lại cục bướu thì nó đã hoàn toàn biến mất. Tôi là người đã tự theo dõi sự diễn tiến bịnh trạng của mình từ đầu tới cuối. Giờ phút này không có sự vui mừng nào bằng. Tôi chạy xuống lầu và nhờ chồng tôi kiểm tra cẩn thận lần nữa. Kết quả anh cũng chẳng tìm thấy gì.

Thứ Năm tuần lễ sau đó, tôi trở lại phòng mạch của vị bác sĩ chuyên khoa để tái khám. Ông đã vô cùng sửng sốt và vui mừng bảo rằng: "Tôi không còn tìm thấy dấu vết nào của bịnh ung thư trong cơ thể của bà nữa cả !"

TRẦN ANH KIỆT
(Trích dịch từ quyển Your Life in Your hands của nữ Khoa Học Gia Jane Plant
)

5.12.2008

Hết bệnh hiểm nghèo : ung thư ngực nhờ tu thiền của bà Sue Dixon, một phật tử người Úc


Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào

Tôi quyết định viết về chuyện ung thư ngực (breast cancer) của tôi với hy vọng rằng nó có thể là lợi ích cho quý đọc giả là tôi hạnh phúc lắm rồi. Ðó là một kinh nghiệm thâm thúy của bản thân vì nó giúp tôi chính thức chuyển đổi hướng đi của tôi trong cuộc sống và Phật pháp đã đóng một vai trò quan trọng dẫn dắt tôi trong hướng đi mới này.

Lần đầu tiên tôi phát hiện mình có một khối u ở bên ngực trái vào đầu tháng 7 năm 1990. Cuộc khám nghiệm cho thấy đó là loại ác tính. Tôi đau khổ vô cùng vì tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bị ung thư, vả lại gia đình tôi không có tiền sử về căn bệnh nan y này và tôi chỉ ở cái tuổi bốn mươi hai. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến một bài báo đã đọc trên tờ MANDALA (báo của hội Phật Giáo Tây Tạng, ấn hành ở Hoa Kỳ bằng tiếng Anh từ năm 1975) nói về một phụ nữ mang bệnh ung thư, được Lạt Ma Zopa dạy rằng đó là dịp tốt để làm lợi ích cho người khác vì căn bệnh của mình. Nhờ đó mà tôi được an ủi và cảm thấy rằng mình cũng như một người có ích cho kẻ khác. Tôi có một cảm giác tràn ngập với những tội lỗi và tin rằng bằng một lý do một nào đó mà có lẽ tôi đã phải chịu một hình phạt ở ngày hôm nay vì những hành vi bất thiện vốn từng gây trong quá khứ.

Tôi có một cuộc phẫu thuật vào ngày 4 tháng 7. Năm tuần sau tôi trở về nhà và đi làm bốn ngày trong một tuần, đó là một công việc căng thẳng của một chuyên viên liệu pháp gia đình tại một Trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng. Một tháng sau chồng tôi lại mổ ruột thừa và sau một tháng thì anh ta bị liệt. Tất cả những căng thẳng ấy đã vây lấy tôi. Ðó là không kể đến làm một bà mẹ và ba đứa con ở tuổi thiếu niên. Năm kế đó, tôi vừa đi làm một tuần năm ngày và vừa đi học để lấy bằng Cao học.

Ngày 25 tháng 5 năm 1992, lần đi khám thường lệ ở bệnh viện. Bác sĩ phẫu thuật cho hay lá gan có nguy cơ lớn hơn trước và rồi chiếu X-quang lại khám phá ra ngực thứ hai cũng bị ung thư. Tôi rất giận dữ và gần như tuyệt vọng. Tất cả những đau đớn đã ập đến và tôi lại bệnh nặng thêm. Tôi bị căng thẳng ở nơi làm việc, không có hạnh phúc trong gia đình, tôi đã đầu hàng và cứ để bệnh ung thư này nghiền nát tôi.

Rồi vào một buổi chiều, tôi viết cho Thượng tọa Zopa (ngài đang ở Hoa Kỳ) một lá thư với nội dung đầy tuyệt vọng. Sau ngày đó tôi có một nội tâm rất mãnh liệt và biết là việc làm đó đúng như mong đợi của tôi, một tuần sau tôi nhận được thư hồi âm từ ông ta. Ngài Zopa có lời an ủi tôi, chỉ dạy tôi những phương pháp tập Thiền cần thiết và ngài cũng nhắc lại rằng tôi đang có cơ hội tốt để có lợi ích cho người khác.

Thầy của tôi là Thượng tọa Khensur Rinpoche ở Adelaide (Úc), cũng dạy cho tôi một số phương pháp đặc biệt trong việc sử dụng y học Phật Giáo. Ngài cũng nhắc nhở tôi phải cẩn thận trong việc ăn uống, tập Thiền, niệm hơi thở hàng ngày. Ngài cũng khuyên tôi đừng quá bi quan và buồn rầu mà hãy nghĩ rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp và tôi sẽ sớm bình phục.

Tôi nghỉ làm việc ở Trung tâm liệu pháp và nhận ra rằng điều đó làm cho tôi khó chịu vì cá tính nghề nghiệp đã buộc chặt tôi trong nhiều năm qua. Vào tháng 12 năm 1992 tôi nhận thấy rằng nếu tôi hết bệnh ung thư và khỏe mạnh bình thường thì có lẽ tôi đã chấm dứt cuộc hôn nhân hai mươi bốn năm của mình rồi. Ðây là một vấn đề bế tắc, một quyết định đau khổ và cũng là nguyên nhân làm cho cha mẹ tôi phải đau buồn.

Cũng trong thời gian đó, tôi theo học một chương trình nội trú ở trung tâm Gawler gần bang Melbourne. Anh Ian Gawler là sáng lập viên của trung tâm, một người tự khôi phục lại từ bên lề của cái chết vì bệnh ung thư xương (bone cancer) trong mười bảy năm trước khi nhờ phương pháp Thiền và ăn chay theo Ðạo Phật. Trung tâm đã cống hiến một cơ hội ngàn vàng cho những người bệnh ung thư đến để chỉnh đốn cuộc sống của mình và bắt đầu thay đổi thói quen của lối sống theo “động cơ” trong quá khứ, học và hành Thiền niệm hơi thở, dùng những thức ăn bổ, khỏe và cố nhiên là thức ăn dành cho người bệnh.

Ở nơi đó, tôi nhận ra rằng tôi có được thuận lợi và tiến bộ đáng kể trong công việc chữa lành bệnh. Tôi thấy mình trở nên trầm lặng hơn, dễ chịu hơn, và chấm dứt những thói quen theo động cơ và tạo ra những khả năng thực sự để tự chữa bệnh cho mình.

Tôi trở về nhà và vẫn tiếp tục hành Thiền nhiều hơn nữa, từ một cho đến hai giờ mỗi ngày theo phương pháp thở, uống vitamin và nhiều loại thuốc bổ tổng hợp khác. Chồng tôi và tôi đã có sự giúp đỡ lẫn nhau thay vì sống ly thân. Tôi cũng có đi châm cứu và đến phòng tập thể dục ba lần trong mỗi tuần.

Ðến đầu tháng 7 năm 1993, tôi đi siêu âm và kết quả cho thấy không có sự bất thường trong gan của tôi nữa, các khối u cũng đều biến mất. Tôi sung sướng như đã vứt bỏ một gánh nặng. Tôi liền tổ chức một bữa tiệc ăn mừng để cám ơn quý Thầy, quý bạn bè và gia đình đã an ủi và giúp đỡ tôi trong lúc bệnh. Thượng tọa Khensue Rinpoche đã nói với tôi thật là một điều kỳ diệu rằng tôi đã khỏi bệnh, một căn bệnh trầm trọng nhưng chỉ đối trị với những phương pháp đơn giản. Tôi cảm ơn ngài về sự chỉ dạy của ngài cũng như những người bạn đạo khác. Sau đó chúng tôi đi bách bộ ra ngoài, tôi nhìn thấy một cầu vòng sáng choang ở phía trước chúng tôi. Tôi đã nhận ra rằng cuộc hành trình của tôi chỉ mới bắt đầu.

Ðạo Phật đã giúp tôi chữa bệnh bằng cách nào ?

Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các vị Thầy đạo hạnh của tôi, cũng như các phương pháp Thiền của Phật pháp một cách tuyệt đối. Tôi tin rằng căn bệnh này là sự chín muồi của nghiệp có liên quan từ đời sống quá khứ và tôi chỉ nhìn nó như một sự thanh lọc hoàn toàn. Tôi cũng cho rằng đây cũng là một dịp may để loại bỏ chu kỳ của nghiệp vì nếu không thì nó sẽ được lập đi lập lại bằng chính nó. Một cách kỳ lạ, tôi cảm thấy bệnh ung thư của tôi lại làm cho tôi khỏe hơn lên.

Áp dụng y học Phật Giáo để chữa bệnh, trong đó vấn đề nhịn ăn, kiêng ăn và tập thở là những điều quan trọng hàng đầu đối với tôi. Tôi quán chiếu một tia sáng theo phương pháp thiền Kim cang để gột rửa đi những tế bào ung thư ở bên cửa miệng của tử thần, rồi tôi thấy mật hoa màu vàng phủ trùm cả cơ thể tôi, và như thế mà lá gan của tôi đã phục hồi trở lại. Tuy nhiên phải mất một vài tháng trước khi những khối u trong tôi có thể bị tẩy sạch.

Một phép quán khác quan trọng nữa là nhìn thấy ai đó đang bị đau đớn, hít vào một hơi thật sâu để xua tan đi những u tối trong tâm hồn và làm rộ ra viên kim cương, cái chính thực của mình. Và rồi thở ra với một luồng ánh sáng trắng từ viên kim cương ấy để đem vào cái mát mẻ và an lạc từ những nỗi đau đớn. Tôi cũng nguyện cầu cho tất cả mọi người bị vướng phải căn bệnh này sớm biết được phương pháp thiền quán này để họ bớt khổ đau.

Tôi có một niềm vui nhất định khi tập thiền. Qua giáo lý và thiền, tôi nhìn thấy rõ cách tồn tại hoàn toàn của tôi được quyết định bởi sự tỉnh thức và sự tự giữ lấy mình. Tôi bắt đầu thấy rõ mình lúc thức, lúc ngủ, cũng như lúc thoải mái hay lúc bực mình. Tôi bắt đầu nắm bắt được sự thật là nếu tôi khỏe lên thì có lẽ tôi lại phóng túng, phá vỡ mọi trật tự những cái sẽ đưa đến sự hoàn thiện, sự hạnh phúc. Thật khó cho chúng ta đạt được như ý trong khi vẫn cứ chạy theo cái lề thói cũ của mình. Ðiều đó đã liên quan đến cả cuộc sống lẫn trong mọi sinh hoạt hàng ngày của tôi. Chẳng hạn như việc sử dụng đồ đạc, trong tiếp xúc, những cái mà tôi không thích thì nay được thay đổi, bước đi với những bước chân thanh thản, nhẹ nhàng thay vì chạy rầm rầm... cũng như những việc lớn giống như tình trạng hôn nhân thoải mái nhưng không hạnh phúc nơi mà tôi đã dần dần bị xói mòn bởi sự giận dữ và xung đột.

Thật là điên cuồng để chạy theo những cái mỏng manh và huyền ảo của lợi danh và vật chất, để rồi lúc đối đầu với cái chết, chúng ta mới nhận ra rằng mình cũng giống như bao người khác, chỉ là sự sợ hãi, thất vọng và "ra đi" với hai bàn tay trắng trong nỗi niềm luyến tiếc những người mình thương, với những gì mình sở hữu. Tại sao chúng ta không biết chuẩn bị cho mình một cái gì đó cho ngày ấy? là một người bằng xương bằng thịt, tôi đã tuyệt vọng khi đối đầu với cái chết để trở nên một người biết thức tỉnh và biết lo tu học. Tôi rất mong quý đọc giả không giống như tình trạng của tôi.

Thế thì tương lai của tôi sẽ ra sao? Tôi cho rằng đang chờ xem thử những gì sẽ xảy ra. Nhưng tôi dám chắc là căn bệnh ung thư kia đã bị loại bỏ hoàn toàn nhờ "phương thuốc" Thiền thần diệu của Ðạo Phật.

Hiện nay tôi đang bận rộn viết cho xong cuốn sách về phương pháp Thiền trị bệnh của Phật Giáo, nhưng tôi muốn nghe ý kiến cũng như muốn đối thoại với bất cứ những ai thắc mắc và quan tâm đến vấn đề này. Hoặc gởi thư cho tôi qua địa chỉ : Sue Taylor, P.O.Box 578 , Kingscote, SA 5223, Australia. Tel: 08.8559 3260. Mobile phone: 0438 192 328; Email: susan.taylor@tassie.net.au

Theo MANDALA Journal, 10/ 09/1993
Thích Nguyên Tạng chuyển ngử

5.11.2008

Nhờ ăn chay và ngồi thiền, bác sĩ Thú y Ian Gawler đã chiến thắng bệnh ung thư xương ( tin nước Úc )



Bác sĩ Thú y Ian Gawler bị bệnh ung thư xương vào năm 1975. Lúc đó ông vừa đúng 25 tuổi. Ông được đưa vào bệnh viện và kết quả bị cưa mất hết bên chân phải. Một năm sau, bệnh tái phát trầm trọng. Bác sĩ điều trị bảo ông chỉ còn sống sót được trong một thời gian từ 3 tới 6 tháng mà thôi. Trước tình trạng tuyệt vọng đó, ông Gawler không chịu ngồi bó tay và buồn rầu chờ chết mà cương quyết chống chọi với tử thần hầu tìm cho mình một con đường sống. Ông nghiên cứu các phép ăn chay và ngồi thiền của một số giáo phái Đông Phương rồi cương quyết đem ra áp dụng để tự chữa.

Được sự hỗ trợ tinh thần của vợ là Grace Gawler, ông Ian Gawler ăn chay một cách nghiêm chỉnh và đúng cách, đồng thời cũng ngồi thiền một cách thành tâm và chăm chỉ. Kết quả bệnh tình của ông càng ngày càng thuyên giảm rõ rệt và cuối cùng đã hoàn toàn bình phục. Năm 1978, lần xét nghiệm y khoa cuối cùng đã chứng minh ông không còn mang mầm móng gì của bệnh ung thư nữa cả.

Ba năm sau kể từ ngày khỏi bệnh, ông bà Gawler chu du khắp nước Úc, đem những kiến thức và kinh nghiệm của mình để thuyết giảng và khuyến khích những bệnh nhân đồng cảnh ngộ hãy hun đúc lòng tự tin và áp dụng phương pháp tự chữa bằng cách ăn chay và ngồi thiền. Cũng dựa vào những kinh nghiệm của chính bản thân đó, ông Gawler đã cho xuất bản hai quyển sách liên quan tới dưỡng sinh và sức khỏe. Quyển thứ nhất có nhan đề là You can conquer Cancer (Bạn có thể Khống chế Bệnh Ung thư) và quyển thứ hai là Peace of Mind (Tâm Bình An). Được hỏi vì sao ông nghĩ ăn chay và ngồi thiền là phương pháp tốt để trị bệnh, ông bảo: "Ăn chay để cho cơ thể của chúng ta có cơ hội thanh lọc và đào thãi ra ngoài tất cả những độc tố đã tích lũy lâu ngày và gây bệnh cho chúng ta. Thịt vốn có những độc tố và những mầm bệnh không khác gì cơ thể của con người. Do đó chúng ta không nên hấp thụ thêm những gì có thể gây phương hại cho cơ thể. Vả lại ăn chay cũng phải dùng những loại rau quả tươi tốt để bảo toàn phẩm chất thiên nhiên. Nấu nướng cầu kỳ biến các thức ăn chay trở thành thơm ngon cho hạp với khẩu vị cũng làm mất đi rất nhiều các chất bổ dưỡng cần thiết. Tốt hơn hết chúng ta nên dùng các thức ăn chay giản dị, thuần khiết, chưa qua giai đoạn chế biến khoa học và đầy đủ phẩm chất bổ dưỡng theo nhu cầu của cơ thể".

Sách đã được phát hành trên 150 000 ấn bản tại Úc Châu


Quan niệm về vấn đề ngồi thiền, ông Gawler bảo: "Sự thiền định không những là một phương pháp tốt khiến cho tinh thần được an ổn mà còn gia tăng sức khỏe, củng cố đặc tính miễn nhiễm của cơ thể và làm cho cơ thể có khả năng bẩm sinh đề kháng lại một số bệnh tật. Việc ngồi thiền đòi hỏi chúng ta phải có lòng tự tin, thành tâm và ý chí cương quyết. Sự ích lợi của việc ngồi thiền giúp chúng ta có cơ hội trở về với trạng thái tĩnh lặng của tinh thần lẫn vật chất. Do đó cơ thể của chúng ta sẽ trở lại vị trí ban đầu còn thanh khiết của lúc sơ sinh:

Quân bình thể chất là làm cho chúng ta có một sức khỏe tự nhiên nhờ ở trạng thái thư dãn của các cơ quan và ngũ tạng. Quân bình tinh thần khiến chúng ta có cách suy nghĩ rõ ràng và chín chắn, có khả năng tự chủ và tự quyết định mọi vấn đề một cách nhanh chóng và dứt khoát.

Quân bình tâm linh là sự hòa hợp của các bản thể nội tại. Trong lúc ngồi thiền, chúng ta sẽ trực giác được chính mình là ai và từ đó sẽ thấy tâm hồn của mình rất là đơn thuần. Đồng thời lòng vị tha và bác ái càng thêm phát triển. Ngoài ra thể nghiệm trực tiếp trong nội tâm cũng giúp chúng ta củng cố được lòng tin nội tại, sẳng sàng đối đầu với tất cả mọi thử thách kể cả khi cận kề với cái chết mà mình không thể tránh được.

Năm 1992, ông bà Gawler đã cho thành lập trung tâm điều dưỡng tại Yarra Valley ở về phía Đông và cách thủ phủ Melbourne 70 cây số. Trung tâm này có khả năng cung cấp nơi tạm trú cho một số khách thập phương đến tham khảo và thực tập phương thức dưỡng sinh để trị bệnh. Trung tâm cũng có khu riêng biệt cho các bệnh nhân thực tập ngồi thiền. Đặc biệt bà Grace Gawler phụ trách săn sóc và hướng dẫn các bệnh nhân phụ nữ mắc bệnh nan y tự chữa trị mà phần lớn là những phụ nữ bị bệnh ung thư nhũ hoa.

Trung tâm cũng mở các khóa hướng dẫn cách thức nấu ăn chay bổ dưỡng và thanh khiết. Hàng năm trung tâm cũng có tổ chức các cuộc hội thảo quốc tế về phương pháp chữa bệnh nan y bằng cách ăn chay và ngồi thiền. Đặc biệt trong hai cuộc hội thảo hồi tháng 3 và tháng 9 năm 1997, bàn thảo về đề tài Phương pháp tự chữa bệnh ung thư hiện đang lan tràn trên thế giới.

Ông Gawler bảo thỉnh thoảng cơ quan y tế của chính phủ cũng có theo dõi kết quả của các bệnh nhân đã chữa bệnh ung thư bằng phương pháp ăn chay và ngồi thiền do chính vợ chồng ông chủ trương và điều khiển. Ông bảo chữa bệnh bằng phương pháp này thường không gây ra các phản ứng phụ. Tuy nhiên việc chữa bệnh nan y bằng phương pháp dưỡng sinh không được phổ biến lắm vì chỉ căn cứ trên kinh nghiệm rồi đem ra áp dụng và chờ kết quả, chớ không dựa trên cơ sở khoa học là phân tích, thí nghiệm, chứng minh rồi mới đem ra áp dụng sau. Vì lẽ đó phần đông các chuyên gia y tế đã thờ ơ trước những kết quả tốt đẹp mà phương pháp này đã mang lại khá nhiều ích lợi cho bênh nhân.

Tóm lại thảo luận về vấn đề ăn chay và ngồi thiền theo quan niệm tôn giáo sẽ gây ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên phương pháp tự chữa bệnh nan y bằng cách ăn chay và ngồi thiền đã đạt được nhiều kết quả khả quan và đã lôi kéo được sự chú ý của khá đông quần chúng Úc. Ngoài trung tâm chữa bệnh nan y bằng phương pháp dưỡng sinh do ông bà Gawler sáng lập ra ở Victoria, tại tiểu bang New South Wales, cũng có một trung tâm điều dưỡng tương tợ do các bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng của Hội Sức Khỏe Tự Nhiên (Natural Health Association) thiết lập. Đó là trung tâm Hopewood tọa lạc tại khu vực Blue Mountain.

Theo đề nghị của một số độc giả, chúng tôi xin đăng địa chỉ của hai trung tâm điều dưỡng bằng phương pháp tự nhiên đó như sau:

The Gawler Foundation, P.O.BOX 77G, Yarra Junction, Vic 3797, điện thoại (059) 671730. Riêng về những vấn đề liên quan đến bịnh ung thư nhũ hoa, xin gọi bà Grace Gawler, điện thoại số (059) 681977.

Hopewood Health Centre, 103 Greendale Road, Wallacia, NSW 2745. Điện thoại (047) 738401.

5.10.2008

Bỏ thuốc lá để tránh ung thư phổi


80% ung thư phổi mắc phải do thuốc lá. Có trên 2000 tác nhân sinh ung thư được biết trong khói thuốc lá. Những tế bào ở người bình thường sẽ thay đổi thành ung thư khi tiếp xúc với chất sinh ung thư. Những chất sinh ung của phổi bao gồm radon, asbestos, bischolomethylether, nickel, chromates, bột than, những chất đồng có hoạt tính phát xạ và arsenic.

Nhiều nghề có gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Chẳng hạn như công nhân đập đá có nguy cơ gia tăng 92 lần so với người bình thường và công nhân đúc tăng 3-8 lần. Nguy cơ cũng gia tăng trong những người làm việc trong nhà máy khí công nghệ, thuốc, xà phòng, thuốc sinh màu vô cơ, nhựa và cao su tổng hợp.

Nguy cơ ung thư phổi cũng gia tăng với liều lượng tiếp xúc chất sinh ung. Ví dụ nguy cơ ung thư phổi cũng tăng, tỉ lệ thuận với số điếu thuốc được hút. Người hút thuốc lá thì có nguy cơ từ 8-20 lần so với người không hút thuốc. Dù nhỏ nhưng là nguy cơ tồn tại thật sự ở những người hút thuốc điếu và hút thuốc bằng ống điếu. Nhiều chất sinh ung cùng tác động trên một cơ thể thì càng gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Khi tiếp xúc vừa asbestos và thuốc lá thì gia tăng nguy cơ ung thư phổi tăng lên gấp nhiều lần.

Nguy cơ ung thư phổi gia tăng ở những người sống thành thị gấp 1,2 đến 2,3 lần so với người sống ở miền quê. Cũng có sự gia tăng ung thư phổi trong những người vừa hút thuốc lá và có bà con gần bị ung thư. Sẹo do nhiễm trùng hoặc chấn thương trước đó cũng liên quan đến ung thư phổi.

Các loại ung thư phổi:

Ung thư phổi được sắp xếp thành loại tế bào nhỏ và tế bào không nhỏ. Loại tế bào không nhỏ thì được phân chia thành carcinom tuyến, phế quản phổi, tế bào gai và tế bào lớn. Xấp xỉ 75-85% ung thư phổi là tế bào không nhỏ và 15 - 25 % là loại tế bào nhỏ.

Ung thư tế bào không nhỏ của phổi

Ở Mỹ, carcinom tuyến là loại ung thư tế bào không nhỏ thường gặp nhất. Phần lớn ung thư này phát triển ngoại vi của phổi. Vì ở ngoại vi nên loại này thường không có triệu chứng cho đến khi chúng được phát hiện trên film X quang ngực. Loại này thường có xu hướng di căn đến phần khác của cơ thể như xương, hệ thần kinh trung ương (não và tuỷ sống), tuyến thượng thận, gan và phổi đối diện.

Thường có sẹo trong carcinoma tuyến. Ðôi khi ung thư phát triển trong những vùng sẹo cũ của phổi. Trong những trường hợp khác thì sẹo xuất hiện sau khi ung thư phát triển.

Carcinom phế quản phổi và phế quản là carcinom tế bào không nhỏ được tìm thấy trên khắp đường hô hấp. Khi được phát hiện nếu là một khối đơn độc trên film X quang phổi thì tiên lượng tốt. Tỉ lệ sống còn 5 năm sau phẫu thuật là 75- 90 %. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện dưới dạng lan tỏa thì tiên lượng xấu.

Carcinom tế bào gai chiếm tỉ lệ 30-40 % của loại carcinom tế bào không nhỏ. Loại này có xu hướng ở trung tâm của phổi, thường trong khí quản. Vì những ung thư này nằm gần hoặc trong khí đạo nên chúng thường gây triệu chứng sớm. Ho đàm máu là triệu chứng thường nhất. Ung thư có thể gây tắt khí đạo làm khó thở và viêm phổi.

Carcinom tế bào lớn chiếm khoảng 10% của loại tế bào không nhỏ. Loại ung thư này thường có ít đặc điểm riêng biệt về cấu trúc khi xem dưới kính hiển vi. Rất khó để phân biệt nó với loại ung thư di căn từ nơi khác đến phổi.


Ung thư tế bào nhỏ của phổi

Ðây là loại nặng nhất và tiên lượng xấu nhất của phổi. Loại này thường có xu hướng phát triển nhanh và di căn sớm đến các phần khác của cơ thể.

Loại này thường thấy là một khối nằm ở trung tâm của phổi trên phim X quang. Tổn thương nguyên phát gieo rắc đến hạch bạch huyết của ngực và vào máu đi đến các phần khác của cơ thể như gan, não, tuỷ sống thận, tuỵ, và tuyến thượng thận.

Hiếm khi loại này được điều trị bằng phẫu thuật vì ung thư nguyên phát quá lớn khi phát hiện hoặc đã di căn rồi. Tuy nhiên loại này đáp ứng tốt với xạ trị và hoá trị.

Triệu chứng của bịnh nhân ung thư phổi là gì ?

Loại tế bào gai và tế bào nhỏ có thể gây ra ho, thở nông, đàm máu, đau ngực, khò khè hoặc viêm phổi. Carcinom tế bào tuyến thường ở phần ngoài của phổi và gây nên đau ngực khi thở, ho hoặc thở nông. Ða số bịnh nhân không triệu chứng khi bịnh được phát hiện đầu tiên trên phim X quang ngực.

Carcinom tế bào nhỏ và tế bào tuyến của phổi được phát hiện đầu tiên với triệu chứng của bịnh di căn. Ðiều này có nghĩa là triệu chứng liên quan đến nơi mà ung thư di căn đến, không nhất thiết tại phổi.

Những triệu chứng chỉ ra ung thư đã lan rộng bao gồm khàn giọng, nuốt khó, sưng mặt, tay và cổ. Di căn tế bào ung thư đến các cơ quan khác ngoài phổi liên quan đến tất cả các loại ung thư của phổi nhưng thường nhất là loại ung thư tế bào nhỏ và carcinom tế bào tuyến. Nhức đầu, mệt, tê tay hoặc yếu liệt là chỉ điểm gợi ý ung thư di căn đến não hoặc tuỷ sống. Ðiều này yêu cầu điều trị khẩn cấp. Ðau xương hoặc đau bụng là triệu chứng của ung thư di căn đến vùng này.

Ung thư phổi được chẩn đoán như thế nào?

Một trong bốn cách sau đây giúp chẩn đoán ung thư phổi một khi nó được nghi ngờ :

1.Xét nghiệm đàm tìm tế bào ung thư. Ðàm được tập trung sau ba ngày thì tỉ lệ dương tính cao hơn 1 ngày.

2. Soi phế quản bằng ống mềm nhỏ bằng cách xuyên qua mũi vào khí quản để phát hiện tế bào ung thư, đồng thời sinh thiết. Lấy mẫu bằng cách dùng bàn chải chải lên sang thương hoặc là dùng kim chích vào sang thương để lấy mẩu đem thử.

3.Sinh thiết bằng kim qua da bằng cách đưa kim nhỏ qua da và thành ngực để đến sang thương. Ðiều này có ích đối với bề mặt của phổi. Sự tiếp cận này được hỗ trợ bằng cách sử dụng scan CAT để hướng dẫn kim chính xác hơn. Trong một số nhỏ trường hợp, rò khí có thể xảy ra. Ðiều này thường tự giới hạn và chỉ 5% trường hợp cần thiết dẫn lưu ngực để hút .

4.Cắt hoặc vứt bỏ bằng phẫu thuật những khối nghi ngờ có thể giúp chẩn đoán. Ðiều này có thể thực hiện qua vết rạch nhỏ ở ngực hoặc soi ngực. Phương pháp này liên quan đến việc đưa một camera nhỏ vào ngực và lấy một mẫu mô phổi bằng cách sử dụng hoặc là kẹp hoặc là laser.

Hóa trị liệu là dùng thuốc để giết tế bào ung thư. Nó là phương pháp được chấp nhận như cách điều trị đầu tiên đối với ung thư tế bào nhỏ. Loại ung thư tế bào nhỏ của phổi có tỉ lệ thành công cao với hoá trị liệu, đặc biệt khi chỉ khu trú ở ngực.

Trong những trường hợp ung thư những tế bào không nhỏ của phổi thì hoá trị liệu có thể được sử dụng một mình hoặc là kết hợp với xạ trị.

Trong tương lai ung thư phổi được quan tâm như thế nào?

Hiện tại việc điều trị thành công ung thư phổi thấp. Tuy nhiên, việc ngăn ngừa sẽ giúp giới hạn một cách tốt nhất của tình trạng này. Ngay cả với chương trình truy tìm và phát hiện ung thư phổi, nhiều nghiên cứu cho thấy không cải thiện về tỉ lệ sống còn một cách đáng kể. Tránh hoặc giới hạn tiếp xúc với tác nhân sinh ung đã được biết (đầu tiên là thuốc lá) là cách tốt nhất ngăn ngừa ung thư phổi.

Ðiều trị ung thư phổi trong tương lai có thể liên quan đến kháng thể - kỹ thuật xạ trị trực tiếp, tức là kháng thể trực tiếp chống lại tế bào ung thư mang phân tử phát tia"radioactive bullets" đến tấn công và phá huỷ tế bào ung thư. Những nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm cách dùng thuốc hay phẫu thuật nhằm giúp điều trị các thể khác nhau của căn bịnh nguy hiểm này.

Tóm lược về ung thư phổi

Ung thư phổi gây chết ở đàn ông và đàn bà nhiều hơn bất kỳ loại ung thư nào khác.

Vì phần lớn ung thư phổi được phát hiện trễ nên chỉ 10% được điều trị tận gốc.

8/10 ung thư phổi liên quan đến thuốc lá.

Ung thư phổi được phân chia thành loại ung thư tế bào nhỏ và tế bào không nhỏ.

Ho dai dẳngvà đàm máu là triệu chứng của ung thư phổi

Ung thư phổi có thể được chẩn đoán qua xét nghiệm đàm, qua nội soi phế quản lấy mẩu thử, dùng kim qua ngực lấy mẩu hoặc cắt mẩu qua phẫu thuật.

Ðiều trị ung thư phổi dựa trên loại, vị trí và kích thước cũng như tuổi và sức khỏe của bênh nhân

(Theo Bác sĩ gia đình)

5.02.2008

Nhắc Quý Phụ Nữ 3 Bước Phòng Ngừa Ung Thư Ngực


Hội Phụ Nữ Bắc Quận Cam YWCA nhắc nhở các chị em 3 bước tối cần để giữ gìn sức khoẻ vú.

1) Chụp quang tuyếnmỗi năm (Mammogram) cho phụ nữ bắt đầu ở tuổi 40.

2) Khám vú do chuyên viên y-tế mỗi năm (Clinical breast exam).

3) Tự khám vú mỗi tháng bắt đầu ở tuổi 20 (Breast self- examination)

Hội Phụ Nữ Bắc Quận Cam YWCA vẫn luôn là người bạn đồng hành để nhắc nhở quý phụ nữ hảy tích cực tham gia Chương trình Khám và Chụp quang tuyến vú Miễn Phí. Xin liên lạc cô NANCY HOÀN điện thoại số (714) 871-4488 ext. 205 hoặc (714) 726-4288 để làm hẹn chụp Mammogram tại những địa điểm sau:

- Thứ Ba, 6 tháng 5, 2008 tại Chùa Liên Hoa, 9561 đường Bixby (giữa đường Brookhurst và Gilbert) thành phố Garden Grove, CA 92841.

- Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2008 tại nhà thờ Công Giáo St. Polycarp, 8100 đường Chapman (gần ngã tư đường Beach), thành phố Stanton, CA 90680.

- Thứ Tư, 14 tháng 5, 2008 tại Trung Tâm Cộng Đồng Abrazar Midway, 14900 đường Parklane (ngã tư đường Washington), Midway City, CA 92655.

- Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2008 tại nhà thờ Tin lành St. Olaf's, 12432 đường số 9 (ngã tư Lampson), thành phố Garden Grove, CA 92840.

- Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2008, tại Trung Tâm Hổ Trợ Gia Đình Magnolia, 11402 đường Magnolia (ngã tư Orangewood), thành phố Garden Grove, CA 92842.

- Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2008 tại nhà thờ Công Giáo St. Polycarp, 8100 đường Chapman (gần ngã tư đường Beach), thành phố Stanton, CA 90680.

- Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2008, tại Trung Tâm Hổ Trợ Gia Đình Magnolia, 11402 đường Magnolia (ngã tư Orangewood), thành phố Garden Grove, CA 92842.

- Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2008, tại nhà thờ Công Giáo Blessed Sacrament, 14072 S. Olive St. (gần ngã tư đường Westminster) thành phố Westminster, CA 92683.

- Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2008, tại nhà thờ Tin lành St. Olaf's, 12432 đường số 9 (ngã tư Lampson), thành phố Garden Grove, CA 92840.

- Thứ Ba, 22 tháng 7, 2008, tại Chùa Liên Hoa, 9561 đường Bixby (giữa đường Brookhurst và Gilbert) thành phố Garden Grove, CA 92841.

-Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2008, tại Chùa Diệu Quang, 3602 W. đường số 5 (xst Harbor), thành phố Santa Ana, CA 92703.

Chương trình Chụp Mammogram MIễn Phí cuả Hội Phụ Nữ Bắc Quận Cam YWCA được tài trợ bởi hội Susan G, Komen Breast Care Foundation, Avon Foundation Breast Care Fund và Unite Way Orange County. Liên lạc cô NANCY HOÀN (714) 871-4488 ext. 205 cho quý phụ nữ 40 trở lên và hội đủ tiêu chuẩn.

4.20.2008

Những bài thuốc chữa ung thư cứu đời cho người nghèo : Bán chỉ liên và Bạch hoa xà thiệt thảo


Báo Tiền phong ra ngày 16/05/2005 , có thuật lại chuyện bác Hy Râu tự chữa khỏi bệnh ung thư thực quản ở giai đoạn cuối bằng bài thuốc này. Hiện nay có người gọi đây là " bài thuốc bí truyền chữa ung thư ".

Cuối thángt 3/2004. bác Trần Văn Hy , biệt danh " Hy Râu " 75 tuồi , ở đường Nguyễn Công Trứ - TP Buôn Mê Thuột. Được chẩn đoán bị ung thư thực quản , trong tình trạng cơ thể bị suy kiệt nặng . Kết quả nội soi cho thấy , khối u như 1 con đỉa lớn, bám dọc và chẹn gần kín thực quản , ko thể ăn uống được bình thường, chỉ có thể nuốt từng giọt sữa một cách khó khăn. Khi đó các thầy thuốc ở HCMC khẳng định chỉ còn cách đặt ống tiếp thức ăn nuôi cơ thể , khi sức khoẻ ổn định sẽ xạ trị. Bác Hy ko chịu điều trị theo PP này, vì nghĩ tuổi đã cao ăn uống đã khó khăn , lại xạ trị độc hại , thà chết còn hơn. Sau 1 thời gian tình cờ tìm lại đống sách cũ, bác tìm được một xấp giấy chép mấy bài thuốc dân gian của một người bạn sưu tầm tặng 5 năm trước . Đọc " bài thuốc bí truyền chữa ung thư ". thấy đơn giản , bác quyết định thử xem sao .




Ngày 18/05/2004 bác Hy bắt đầu uống thuốc . Những chén đầu tiên phải nhỏ tưng giọt một, uống cả buổi mới hếty. Tới thang thứ 6 , bác bắt đầu nuốt được, bệnh có vẻ tiến triển tốt. Bác tiếp tục uống và mỗi tháng đi soi 1 lần. Đến cuối năm 2004 , khối u đã tan , chỉ để lại vết sẹo trên thực quản., sức khoẻ hồi phục dần. Cho đến thời điểm được thông tin trên báo (05/2005) bác Hy đã khoẻ hẳn ,da dẻ hồng hào , nặng 57 kg. Bác cho biết , cũng bày cho 1 số người uống thấy có hiệu quả , bác đề nghị khoa học nghiên cứu , kiểm chứng . Nếu thực sự tốt thì phổ biến cho mọi người .

- Nội dung : Bách Hoa Xà 2 lạng ( 75 Gam ), Bán Liên Chi 1 lạng ( 37gam ). Rửa sạch đất cát . Đổ 4 bát nước sắc nhỏ lửa khoảng 2h, còn 1 bát. Mỗi thang sắc 2 lần . Uống nguội ,lúc đói bụng .

Bài thuốc này nguồn gốc là bài thuôc nam lưu truyền trong dân gian ở vùng Nam trung quốc và Bắc Việt Nam . Cách đây khoảng chục năm , Hà Nội từng xôn xao về bài thuốc này , ngươi người , nhà nhà ... đổ nhau đi mua về uống chữa và phòng bệnh .

Qua nghiên cứu cơ chế gây bệnh ung thư và tính năng dươc phẩm của 2 vị thuốc nói trên của cơ quan y tế Trung Quốc thì BCL và BHXTT đều là những vị thuốc thuộc nhóm " công tà " . Sử dụng đơn dộc thuốc công tà ( ko phối hợp với thuốc bổ và điều hoà ) , nói chung sẽ có tác dụng nhanh và mạnh . Nếu phù hợp cơ địa ( bệnh tình, tuổi tác, thể lực ...) có thể có kết quả mau chóng . Nếu không hợp cơ địa , hoặc uống lâu dài có thể tạo phản ứng phụ nguy hiểm. Giữa tháng 3/2006, lương y Hư Đan có dịp chứng kiến 1 trường hợp phụ nữ 82 tuổi ở phố Nguyễn An Ninh , Hà nỘi đã từng sử dụng bài thuốc nói trên chữa ung thư vòm họng , do tuổi già , sức yếu ko thể đủ sức tiếp nhận các PP của y học hiện đại . Kết quả khối u nhỏ đi rất nhanh, ăn uống dễ dàng . Nhưng khi uống đến gần 40 thang , thì bị suy kiệt . người mệt lả .... May là sau đó đã được 1 thày đông y khác chữa cho ổn định .

Qua kết quả nghiên cứu dược lý và lâm sàng cho thấy , kinh nghiệm dùng BCL và BHXTT chữa ung thư , có cơ sở nhất định . Tuy nhiên bài thuốc có thể phù hợp với người này , mà không phù hợp với người khác, và cũng có một số tác dụng phụ. Trường hợp cần thiết , sử dụng lâu dài , nên tham khảo hướng dẫn và giám sát của các thầy thuốc có kinh nghiệm.


Bài đọc thêm : PHƯƠNG THUỐC 2 VỊ CHỮA BỆNH UNG THƯ ( đơn giản, hiệu quả, dể kiếm )

Không chỉ chữa được viêm da, sỏi mật, viêm gan..., cỏ lưỡi rắn trắng còn giúp phòng trị nhiều loại ung thư. Dân gian từng truyền tụng một bài thuốc chữa ung thư gan hiệu nghiệm được cho là của một tử tù, với 2 cây thuốc là cỏ lưỡi rắn trắng và bán biên liên.


Hai vị thuốc trên có thể mua ở bất cứ hiệu thuốc Bắc - Nam nào . Tất cả đều là dạng khô . Lưu ý nhớ rửa cho thật sạch kẻo rất nhiều đất .


Trong Đông y, cỏ lưỡi rắn trắng có tên là bạch hoa xà thiệt thảo, còn có tên là bồi ngòi bò, xà thiệt thảo, xà châm thảo, long thiệt thảo. Tên khoa học là Hedyotis diffusa Willd, thuộc họ cà phê. Đây là loại cỏ mọc bò, sống hàng năm, có thể cao tới 30-40 cm. Lá mọc đối, hơi thuôn dài, không có cuống lá, có khía răng ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc hoặc thành đôi ở kẽ lá, có màu trắng. Quả nang khô dẹt ở đầu, có nhiều hạt màu nâu nhạt. Cây thường mọc hoang nơi đất ẩm ướt. Ngay tại Hà Nội cũng thấy cây này. Nó được dùng toàn cây làm thuốc.

Trong y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo được dùng chữa các bệnh viêm họng, viêm đường tiết niệu, viêm gan, sỏi mật, lỵ trực trùng, mụn nhọt, rôm sảy, rắn cắn; dùng ngoài chữa vết thương, côn trùng đốt, đau lưng, đau khớp… Thời xưa, Tuệ Tĩnh thường dùng nó chữa rắn cắn, sởi…

Theo y học hiện đại, do tăng cường khả năng của đại thực bào trong hệ thống lưới- nội mô và bạch cầu nên bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng chống viêm. Cây này cũng ức chế tế bào ung thư lymphô, bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, tế bào carcinom; ức chế hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo ra. Nó hỗ trợ điều trị bệnh ung thư nhờ tác dụng ức chế miễn dịch. Trung Quốc dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh ung thư dạ dày, thực quản, cổ tử cung, bàng quang, trực tràng, đại tràng, thực quản, hạch…

Tại Ấn Độ, bạch hoa xà thiệt thảo còn được dùng chữa các bệnh viêm gan virus, sốt, lậu… Tương đồng với y học Ấn Độ, một số nước cũng dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh viêm gan. Trung Quốc đã bào chế một loại thuốc từ thảo dược với tên Ất can ninh, thành phần có bạch hoa xà thiệt thảo, hoàng kỳ, nhân trần, đảng sâm, hà thủ ô?… Theo các nhà khoa học, Ất can ninh có tác dụng ức chế miễn dịch, ngăn ngừa sự phát triển của virus và phục hồi chức năng gan, có tác dụng tốt trong điều trị bệnh viêm gan virus B. Thảo dược này cũng có mặt trong Lợi đởm thang bên cạnh các thành phần nhân trần, kim tiền thảo, dùng chữa sỏi mật, viêm đường mật ở Trung Quốc.

Trong dân gian, cây chủ yếu được dùng dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Liều dùng có thể tới 60 g thuốc khô, tương đương với khoảng 250 g dược liệu tươi. Dùng ngoài không kể liều lượng. Ở nước ngoài, bạch hoa xà thiệt thảo còn được bào chế thành dạng thuốc tiêm để chữa các bệnh ung thư và viêm nhiễm như viêm phế quản, viêm phổi, viêm họng, viêm ruột thừa…

Một số bài thuốc Nam đơn giản

Chữa ung thư gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, chó đẻ răng cưa 30 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa ung thư dạ dày: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 60 g, hạt bo bo 40 g, đường đỏ 40 g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa viêm họng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa phù thũng: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, rễ cỏ tranh 30 g, râu ngô 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa viêm gan vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, chó đẻ răng cưa 30 g, nhân trần 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa sỏi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim tiền thảo 20 g, màng trong mề gà sao cách cát cho vàng 16 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Hoặc: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, nhân trần 40 g, kim tiền thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang (lợi đởm hợp tễ). Bài thuốc này đã được Trung Quốc áp dụng trên lâm sàng, có tác dụng lợi mật, tăng bài tiết mật. Thường được áp dụng cho bệnh sỏi mật, bệnh đường mật…

Chữa lỵ trực trùng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, rau sam 20 g, lá mơ tam thể 20 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa lỵ, viêm phần phụ: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang. (Phúc kiến trung thảo dược).

Chữa nhọt lở: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim ngân hoa 20 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa rôm sảy: Bạch hoa xà thiệt thảo, cúc liên chi dại. Hai vị lượng bằng nhau. Dùng để nấu nước tắm.

Chữa vết thương sưng đau: Bạch hoa xà thiệt thảo 200 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa mụn nhọt: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.

Chữa rắn cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 100 g, giã nát, cho thêm nước, bã đắp vào chỗ rắn cắn, còn nước uống.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống

Nguồn : http://thegioivohinh.com/showthread.php?t=109

4.19.2008

Chế độ ăn uống phòng ngừa ung thư


Chọn chế độ ăn ưu thế phòng ngừa ung thư là nhóm thức ăn nguồn gốc thực vật, phong phú về rau quả, đậu, khoai củ các loại hạt.

Nên xây dựng chế độ ăn dựa vào thức ăn nguồn gốc thực vật chứa các vitamin, chất khoáng thiết yếu, chất xơ...


Thực đơn nên càng ít loại thực phẩm từ chất bột tinh chế hoặc đã qua chế biến càng tốt.

Một, nên xây dựng chế độ ăn dựa vào thức ăn nguồn gốc thực vật chứa các vitamin, chất khoáng thiết yếu, chất xơ và các thành phần khác, giúp cơ thể chống đỡ với các yếu tố gây ung thư. Các thức ăn này thường ít chất béo và năng lượng nên còn giúp kiểm soát cân nặng.

Hạn chế tối đa thực phẩm chế biến. Các thức ăn này thường có nhiều chất béo, muối thịt và đường tinh chế, đồng thời quá trình chế biến có thể phá hủy nhiều chất dinh dưỡng và các thành phần khác có vai trò bảo vệ chống ung thư.

Hai, ăn nhiều rau tươi và quả chín. Hàng ngày, nên dùng 40 - 800g. Nghiên cứu khoa học cho thấy chế độ ăn đủ rau quả có thể giảm 20% nguy cơ ung thư.

Tác dụng bảo vệ của rau đối với ung thư thông qua các tương tác phức tạp giữa các vitamin, khoáng chất, chất xơ và các thành phần hóa học khác. Các loại rau có lá xanh, bắp cải, cà rốt, cà chua và chanh rất có giá trị.



Nên ăn nhiều rau tươi và quả chín

Rau quả không phải là thức ăn có phép mầu nhiệm gì. Nhưng chúng chứa nhiều chất - hiện nay còn chưa biết hết - có lợi cho sức khoẻ. Do đó không chỉ ăn vài ba thứ mà nên thay đổi nhiều loại. Các loại quả hơn hẳn đường tinh chế vì ngoài vị ngọt còn cung cấp nhiều vitamin, chất khoáng, chất xơ.

Ba, giới hạn lượng thịt . Nhiều bằng chứng cho thấy sử dụng nhiều thịt có liên quan tới một số ung thư như đại trực tràng, ung thư vú.

Bốn, duy trì trọng lượng cơ thể. Nên có và hoạt động thể lực đều đặn. Nên nhớ thiếu cân và thừa cân đều tăng nguy cơ ung thư. Chỉ số khối cơ thể (BMI) nên vào khoảng 18,5 đến 23.

Ở tuổi trưởng thành cân nặng dao động không quá 5 kg. Không nên càng lớn tuổi càng tăng cân, nhất là sau mãn kinh. Những người lao động tĩnh tại cần duy trì nếp sống năng động (đi xe đạp, làm vườn, lau nhà hoặc đi bộ nhanh một giờ/ngày).

Năm, không uống rượu, nếu có chỉ nên uống rượu vang và uống vừa phải (không quá 2 lần/ngày đối với nam và một lần/ngày đối với nữ, mỗi lần khoảng 100ml, tương đương 250 ml bia.

Nếu là rượu khác, không nên quá 25 ml/ngày. Nguy cơ ung thư tăng khi vừa uống rượu vừa hút thuốc. Một số bằng chứng cho thấy rượu vang tốt với sức khoẻ tim mạch nhưng không bao gồm cả ung thư.

Sáu, chọn thực phẩm ít béo và ít muối. Nên chọn các thực phẩm ít chất béo, đặc biệt nguồn gốc động vật (dùng sữa gầy, ít món xào rán. Chọn thịt nạc, thịt gà bỏ da, không dùng các loại bánh ngọt nhiều chất béo).

Phần lớn thức ăn qua chế biến công nghệ đều nhiều muối và chất béo. Ăn nhiều thực phẩm béo không những tăng nguy cơ ung thư mà còn có thể dẫn tới thừa cân - béo phì cũng là một nguy cơ khác của ung thư.

Mỗi lần định ăn nhóm thực phẩm này, nên xem thành phần qua nhãn mác để có quyết định phù hợp.

Bảy, chế biến và bảo quản thực phẩm an toàn, hợp vệ sinh. Một số mốc nấm phát triển ở thực phẩm gây ung thư. Bảo quản thực phẩm tươi sống, sử dụng trong thời hạn cho phép. Không dùng thực phẩm, đặc biệt các loại hạt, bị mốc.



Nên hạn chế ăn đồ nướng

Các loại thịt, cá rán, nướng ở nhiệt độ quá cao có thể sinh ra các chất ung thư trên bề mặt. Vì thế chỉ nên ăn thỉnh thoảng thịt nướng và loại phần cháy.

Các thực phẩm qua chế biến (lạp xường, xúc xích) thường chứa nitrat và nitrit có thể chuyển thành các chất gây ung thư trong quá trình tiêu hóa. Quá trình hun khói cũng sinh ra nhiều chất độc hại và một số trong đó có tính chất ung thư mạnh. Do đó các loại thực phẩm này chỉ nên dùng thỉnh thoảng.

Tám, không hút và dùng thuốc lá dưới bất cứ hình thức nào. Ngừng hút thuốc lá không những giảm nguy cơ ung thư và các bệnh đường hô hấp khác cho bản thân mà còn cho những người cùng sống và làm việc với mình.


Thực đơn thông thái

Theo Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (Bộ Y tế), một đời người trung bình ăn uống hết 12,5 tấn ngũ cốc, 30 tấn thịt, cá, trứng, đường, sữa, rau, củ, quả..., và 65 tấn nước. Và không mấy ai tường tận ảnh hưởng của môi trường thực phẩm tới sức khỏe như thế nào.

Các ca ngộ độc cấp tính hay bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm là điều nhiều người biết và có thể thấy sợ mà tự phòng xa. Nhưng ngộ độc mãn tính do môi trường thực phẩm lại rất khó phát hiện với đa số người tiêu dùng.

Vẫn theo Cục ATVSTP, ngộ độc mãn tính là thủ phạm chính dẫn đến bảy căn bệnh của thế giới hiện đại gồm béo phì, tăng huyết áp, tim mạch, tiểu đường, loãng xương, ung thư và tổn thương mãn tính.


Việt Báo

4.18.2008

Xét nghiệm máu có xác định được ung thư?


“CEA tăng cao trong máu như thế chắc là bị ung thư rồi!”. Một câu nói vô tình của nhân viên y tế có thể khiến bệnh nhân lo lắng đến suy sụp tinh thần và gầy đi trông thấy. Vậy xét nghiệm máu có xác định được ung thư?

Treo án tử hình” cho người bệnh

Trong một lần khám sức khỏe tại cơ quan, kết quả xét nghiệm máu tìm dấu hiệu sinh học (DHSH) ung thư của chị N.T.L.T. (31 tuổi, Q.3, TP.HCM) là: chỉ số CA 125 (DHSH ung thư buồng trứng) tăng quá ngưỡng cho phép.

Bình thường chỉ số này dưới 35 U/ml, nhưng kết quả cho biết CA 125 của chị tăng lên đến 294 U/ml. Bác sĩ đề nghị chị phải đến bệnh viện khám và làm thêm một số xét nghiệm khác.

Kết quả xét nghiệm máu lần hai cho thấy chỉ số CA 125 giảm còn hơn 100 U/ml. Siêu âm buồng trứng chưa phát hiện bất thường. Chị lo lắng mất ăn mất ngủ ....

Sáu tháng sau, chị đến bệnh viện xét nghiệm lại. Kết quả xét nghiệm CA 125 giảm còn 61 U/ml. Sau một thời gian kiêng cữ, ngày 3-8-2006, chị đến Bệnh viện Ung bướu TP.HCM để xét nghiệm máu lại lần nữa. Kết quả CA 125 vọt lên 293 U/ml. Chị N.T.L.T. lo lắng không biết mình có bị ung thư buồng trứng hay không. Tại sao cái chỉ số này cứ “nhảy nhót” lên xuống như vậy.

Nhiều bệnh nhân khác khi nhận được kết quả xét nghiệm thông báo DHSH ung thư quá mức cho phép cũng đều nghĩ là mình đã bị ung thư. Có người chạy khắp các bệnh viện, cứ một hai tháng lại đi xét nghiệm máu, siêu âm, kể cả chụp CT scanner một lần để xem “nó” tăng, giảm.

Người sợ quá thì “trốn” luôn bác sĩ, không dám đi bệnh viện khám hoặc làm lại xét nghiệm... vì sợ “sự thật phũ phàng”!

Những lo lắng của bệnh nhân có khi xuất phát từ việc nhiều bệnh viện làm xét nghiệm máu để phát hiện DHSH ung thư, nhưng kết quả trả lời thường chỉ là những con số lạnh lùng, ít khi có lời giải thích tường tận từ thầy thuốc. Vì vậy, nếu một nhân viên y tế nào đó vô tình “phang” một câu “tăng vậy là ung thư rồi” thì chẳng khác nào “treo án tử hình” cho người bệnh.

Chỉ có giá trị tham khảo

Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng - giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP.HCM - cho biết DHSH ung thư là các chất được tìm thấy trong máu, nước tiểu hay các loại mô của bệnh nhân. Các DHSH này có thể giúp việc phát hiện và chẩn đoán một số loại ung thư.

Tuy nhiên, nếu chỉ đo DHSH không thôi thì chưa đủ để chẩn đoán bệnh vì DHSH có thể lên cao ở người bị bệnh lành tính. Dấu hiệu này cũng có thể không tăng ở người bệnh ung thư, nhất là khi bệnh ở thời kỳ sớm.

Có nhiều yếu tố có thể làm tác động đến kết quả xét nghiệm tìm DHSH ung thư như bệnh nhân hút thuốc lá nhiều, đang bị bệnh viêm nhiễm nào đó, đang dùng thuốc, có thai, kinh nguyệt, thậm chí có thể do trục trặc kỹ thuật của phòng xét nghiệm (thuốc thử nhạy quá)...

Vì vậy, xét nghiệm máu để tìm DHSH ung thư chỉ là một biện pháp kỹ thuật bổ sung phương tiện cho thầy thuốc nhằm phát hiện sớm ung thư và theo dõi sự tiến triển của ung thư khi bệnh nhân đã và đang điều trị, giúp bác sĩ định phác đồ điều trị phù hợp cho bệnh nhân trước khi điều trị ung thư.

Lượng DHSH trong máu có thể đo đều đặn suốt quá trình điều trị để theo dõi độ chịu thuốc của người bệnh... Vì vậy, DHSH ung thư chỉ có giá trị tham khảo chứ không xác định chắc chắn là bị ung thư hay không.

Cũng theo BS Chấn Hùng, ngay cả khi không có những xáo trộn sinh học thì vẫn nên giữ chế độ dinh dưỡng hợp lý, cân bằng. Tốt nhất nên ăn nhiều loại rau củ quả, trái cây tươi có nhiều chất độn (xơ), ăn ít chất béo - nhất là chất béo động vật, giảm ăn thịt động vật.

Tuy vậy nếu kiêng quá mức cũng không có lợi cho sức khỏe. Ngoài ra, không để cho cơ thể béo phì, tăng cường vận động ít nhất mỗi ngày 30 phút, chơi thể thao, tập dưỡng sinh... cũng là những biện pháp rất hiệu quả để phòng ngừa ung thư.

“Nếu chỉ vì DHSH tăng cao mà chuyển sang chế độ ăn chay hoàn toàn và triệt để thì không nên” - BS Chấn Hùng nói. Khi cơ thể suy yếu cũng tạo điều kiện cho ung thư bộc phát. Gạo lức muối mè lại càng không thể ngăn ngừa hoặc điều trị được ung thư.

Tuy nhiên, với người trước đây ăn uống quá thoải mái (nhiều thịt mỡ, ít rau quả), khi chuyển sang ăn gạo lức muối mè hợp lý thì cũng tốt cho sức khỏe.

Tìm đến “thầy lang” hoặc chỉ uống những loại thảo dược để phòng ngừa, điều trị ung thư cũng không nên. Nếu bị bệnh mà đi điều trị bằng những phương pháp chưa được khoa học chứng minh chỉ làm chậm trễ thêm việc điều trị và khi điều trị sẽ không đem lại hiệu quả.

Khoa học ngày nay có rất nhiều tiến bộ và ung thư không phải là bệnh nan y khi được phát hiện sớm và điều trị đúng.

Theo_TuoiTre

BS Chấn Hùng khuyên bệnh nhân nếu chỉ tin vào xét nghiệm bất thường này mà lo lắng là không cần thiết.

Tốt nhất, bệnh nhân nên đến bác sĩ chuyên khoa (ung bướu, niệu, sản phụ khoa...) để chia sẻ sự lo lắng, để được khám và rà tìm nguyên nhân bằng những xét nghiệm chẩn đoán cận lâm sàng khác (nội soi sinh thiết, siêu âm, MRI, CT Scanner, X-quang...) giúp phát hiện bệnh sớm hoặc loại trừ không phải bị ung thư.

Có khi sau một thời gian DHSH tự nó mất đi mà nguyên nhân không tìm ra được.

4.17.2008

Chế độ ăn uống ngừa ung thư


Tỉ lệ mắc các chứng ung thư ngày càng tăng cao, bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của căn bệnh quái ác này. Ngay từ bây giờ, hãy bảo vệ bạn và gia đình khỏi “vòng nguy hiểm” này nhé.

Mối liên hệ giữa thực phẩm và bệnh ung thư

Các chuyên gia về bệnh ung thư trên toàn thế giới thấy rằng chế độ ăn uống có thể tăng giảm 40% nguy cơ mắc bệnh ung thư.

Ăn những thực phẩm không có lợi có thể làm tăng 40% nguy cơ mắc bệnh. Ngược lại, dùng đúng loại thực phẩm chứa các thành phần chống lại ung thư có thể tạo nên sự khác biệt lớn.

Ở mỗi một vùng miền, xuất hiện các loại bệnh ung thư khác nhau. Điều đó chứng tỏ, chế độ, thói quen ăn uống mỗi một nơi cũng góp phấn gây bệnh ung thư.


Tạo thói quen

Chúng ta có thể tự bảo vệ mình bằng cách thay đổi những thói quen tốt hàng ngày:

- Không hút thuốc

- Mỗi ngày không nên uống quá 2 cốc rượu

- Luôn tránh xa những chất gây ung thư, ô nhiễm và các chất hoá học

- Không nên để bị cháy nắng

- Đến khám bác sĩ khi thấy mình thường xuyên mệt mỏi, hoặc sau khi ốm, phải mất thời gian lâu mới hồi phục được.

- Tập thể dục đều đặn 3, 4 lần/tuần

- Thực hiện chế độ giảm cân nếu bạn bị béo phì hoặc thừa trọng lượng.

- Xem xét chế độ ăn uống: nên ăn những thực phẩm có thành phần ngăn ngừa ung thư, ngăn ngừa ôxy hoá và những thực phẩm nhiều chất xơ. Đồng thời cần tránh dùng một số thực phẩm.

Thực phẩm ngừa ung thư

- Cà chua đỏ có thể ngăn ngừa 50% nguy cơ mắc bệnh ung thư. Nấu chín hoặc ăn sống đều được. Nước sốt cà chua có khả năng chống ôxy hoá cao. Đây là thực phẩm khá rẻ và sẵn có nên có thể dùng một lượng lớn trong một ngày.

- Một số thành phần trong hành, tỏi kích thích cơ thể sinh ra enzyme có khả năng trung hoà các tế bào ung thư.

- Rau quả tươi có chứa nhiều chất chống ung thư.

Hạn chế dùng những thực phẩm sau:

- Mỡ béo động vật, có trong các loại thịt và các sản phẩm làm từ sữa

- Ăn quá nhiều bơ cũng không tốt

- Hạn chế dùng các loại bột tinh chế

- Không nên ăn quá nhiều đường, muối.

Nên:

- Những loại thực phẩm chứa nhiều vitamin B và axit folic, như là đậu hoặc rau bina ( spinach ).

- Những thực phẩm có chứa axit béo ômega-3 như flaxseed oil và dầu oliu. Loại dầu này giúp giảm lượng cholesterol xấu hiệu quả.

- Nên ăn thường xuyên đều đặn rau quả tươi, đặc biệt một số loại có khả năng chống lại ung thư như là rau có lá xanh, tỏi, hành, cà chua…

Theo Health24