Featured 1

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 2

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 3

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 4

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

Featured 5

Curabitur et lectus vitae purus tincidunt laoreet sit amet ac ipsum. Proin tincidunt mattis nisi a scelerisque. Aliquam placerat dapibus eros non ullamcorper. Integer interdum ullamcorper venenatis. Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas.

down

Showing posts with label Phổi. Show all posts
Showing posts with label Phổi. Show all posts

5.10.2008

Bỏ thuốc lá để tránh ung thư phổi


80% ung thư phổi mắc phải do thuốc lá. Có trên 2000 tác nhân sinh ung thư được biết trong khói thuốc lá. Những tế bào ở người bình thường sẽ thay đổi thành ung thư khi tiếp xúc với chất sinh ung thư. Những chất sinh ung của phổi bao gồm radon, asbestos, bischolomethylether, nickel, chromates, bột than, những chất đồng có hoạt tính phát xạ và arsenic.

Nhiều nghề có gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Chẳng hạn như công nhân đập đá có nguy cơ gia tăng 92 lần so với người bình thường và công nhân đúc tăng 3-8 lần. Nguy cơ cũng gia tăng trong những người làm việc trong nhà máy khí công nghệ, thuốc, xà phòng, thuốc sinh màu vô cơ, nhựa và cao su tổng hợp.

Nguy cơ ung thư phổi cũng gia tăng với liều lượng tiếp xúc chất sinh ung. Ví dụ nguy cơ ung thư phổi cũng tăng, tỉ lệ thuận với số điếu thuốc được hút. Người hút thuốc lá thì có nguy cơ từ 8-20 lần so với người không hút thuốc. Dù nhỏ nhưng là nguy cơ tồn tại thật sự ở những người hút thuốc điếu và hút thuốc bằng ống điếu. Nhiều chất sinh ung cùng tác động trên một cơ thể thì càng gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Khi tiếp xúc vừa asbestos và thuốc lá thì gia tăng nguy cơ ung thư phổi tăng lên gấp nhiều lần.

Nguy cơ ung thư phổi gia tăng ở những người sống thành thị gấp 1,2 đến 2,3 lần so với người sống ở miền quê. Cũng có sự gia tăng ung thư phổi trong những người vừa hút thuốc lá và có bà con gần bị ung thư. Sẹo do nhiễm trùng hoặc chấn thương trước đó cũng liên quan đến ung thư phổi.

Các loại ung thư phổi:

Ung thư phổi được sắp xếp thành loại tế bào nhỏ và tế bào không nhỏ. Loại tế bào không nhỏ thì được phân chia thành carcinom tuyến, phế quản phổi, tế bào gai và tế bào lớn. Xấp xỉ 75-85% ung thư phổi là tế bào không nhỏ và 15 - 25 % là loại tế bào nhỏ.

Ung thư tế bào không nhỏ của phổi

Ở Mỹ, carcinom tuyến là loại ung thư tế bào không nhỏ thường gặp nhất. Phần lớn ung thư này phát triển ngoại vi của phổi. Vì ở ngoại vi nên loại này thường không có triệu chứng cho đến khi chúng được phát hiện trên film X quang ngực. Loại này thường có xu hướng di căn đến phần khác của cơ thể như xương, hệ thần kinh trung ương (não và tuỷ sống), tuyến thượng thận, gan và phổi đối diện.

Thường có sẹo trong carcinoma tuyến. Ðôi khi ung thư phát triển trong những vùng sẹo cũ của phổi. Trong những trường hợp khác thì sẹo xuất hiện sau khi ung thư phát triển.

Carcinom phế quản phổi và phế quản là carcinom tế bào không nhỏ được tìm thấy trên khắp đường hô hấp. Khi được phát hiện nếu là một khối đơn độc trên film X quang phổi thì tiên lượng tốt. Tỉ lệ sống còn 5 năm sau phẫu thuật là 75- 90 %. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện dưới dạng lan tỏa thì tiên lượng xấu.

Carcinom tế bào gai chiếm tỉ lệ 30-40 % của loại carcinom tế bào không nhỏ. Loại này có xu hướng ở trung tâm của phổi, thường trong khí quản. Vì những ung thư này nằm gần hoặc trong khí đạo nên chúng thường gây triệu chứng sớm. Ho đàm máu là triệu chứng thường nhất. Ung thư có thể gây tắt khí đạo làm khó thở và viêm phổi.

Carcinom tế bào lớn chiếm khoảng 10% của loại tế bào không nhỏ. Loại ung thư này thường có ít đặc điểm riêng biệt về cấu trúc khi xem dưới kính hiển vi. Rất khó để phân biệt nó với loại ung thư di căn từ nơi khác đến phổi.


Ung thư tế bào nhỏ của phổi

Ðây là loại nặng nhất và tiên lượng xấu nhất của phổi. Loại này thường có xu hướng phát triển nhanh và di căn sớm đến các phần khác của cơ thể.

Loại này thường thấy là một khối nằm ở trung tâm của phổi trên phim X quang. Tổn thương nguyên phát gieo rắc đến hạch bạch huyết của ngực và vào máu đi đến các phần khác của cơ thể như gan, não, tuỷ sống thận, tuỵ, và tuyến thượng thận.

Hiếm khi loại này được điều trị bằng phẫu thuật vì ung thư nguyên phát quá lớn khi phát hiện hoặc đã di căn rồi. Tuy nhiên loại này đáp ứng tốt với xạ trị và hoá trị.

Triệu chứng của bịnh nhân ung thư phổi là gì ?

Loại tế bào gai và tế bào nhỏ có thể gây ra ho, thở nông, đàm máu, đau ngực, khò khè hoặc viêm phổi. Carcinom tế bào tuyến thường ở phần ngoài của phổi và gây nên đau ngực khi thở, ho hoặc thở nông. Ða số bịnh nhân không triệu chứng khi bịnh được phát hiện đầu tiên trên phim X quang ngực.

Carcinom tế bào nhỏ và tế bào tuyến của phổi được phát hiện đầu tiên với triệu chứng của bịnh di căn. Ðiều này có nghĩa là triệu chứng liên quan đến nơi mà ung thư di căn đến, không nhất thiết tại phổi.

Những triệu chứng chỉ ra ung thư đã lan rộng bao gồm khàn giọng, nuốt khó, sưng mặt, tay và cổ. Di căn tế bào ung thư đến các cơ quan khác ngoài phổi liên quan đến tất cả các loại ung thư của phổi nhưng thường nhất là loại ung thư tế bào nhỏ và carcinom tế bào tuyến. Nhức đầu, mệt, tê tay hoặc yếu liệt là chỉ điểm gợi ý ung thư di căn đến não hoặc tuỷ sống. Ðiều này yêu cầu điều trị khẩn cấp. Ðau xương hoặc đau bụng là triệu chứng của ung thư di căn đến vùng này.

Ung thư phổi được chẩn đoán như thế nào?

Một trong bốn cách sau đây giúp chẩn đoán ung thư phổi một khi nó được nghi ngờ :

1.Xét nghiệm đàm tìm tế bào ung thư. Ðàm được tập trung sau ba ngày thì tỉ lệ dương tính cao hơn 1 ngày.

2. Soi phế quản bằng ống mềm nhỏ bằng cách xuyên qua mũi vào khí quản để phát hiện tế bào ung thư, đồng thời sinh thiết. Lấy mẫu bằng cách dùng bàn chải chải lên sang thương hoặc là dùng kim chích vào sang thương để lấy mẩu đem thử.

3.Sinh thiết bằng kim qua da bằng cách đưa kim nhỏ qua da và thành ngực để đến sang thương. Ðiều này có ích đối với bề mặt của phổi. Sự tiếp cận này được hỗ trợ bằng cách sử dụng scan CAT để hướng dẫn kim chính xác hơn. Trong một số nhỏ trường hợp, rò khí có thể xảy ra. Ðiều này thường tự giới hạn và chỉ 5% trường hợp cần thiết dẫn lưu ngực để hút .

4.Cắt hoặc vứt bỏ bằng phẫu thuật những khối nghi ngờ có thể giúp chẩn đoán. Ðiều này có thể thực hiện qua vết rạch nhỏ ở ngực hoặc soi ngực. Phương pháp này liên quan đến việc đưa một camera nhỏ vào ngực và lấy một mẫu mô phổi bằng cách sử dụng hoặc là kẹp hoặc là laser.

Hóa trị liệu là dùng thuốc để giết tế bào ung thư. Nó là phương pháp được chấp nhận như cách điều trị đầu tiên đối với ung thư tế bào nhỏ. Loại ung thư tế bào nhỏ của phổi có tỉ lệ thành công cao với hoá trị liệu, đặc biệt khi chỉ khu trú ở ngực.

Trong những trường hợp ung thư những tế bào không nhỏ của phổi thì hoá trị liệu có thể được sử dụng một mình hoặc là kết hợp với xạ trị.

Trong tương lai ung thư phổi được quan tâm như thế nào?

Hiện tại việc điều trị thành công ung thư phổi thấp. Tuy nhiên, việc ngăn ngừa sẽ giúp giới hạn một cách tốt nhất của tình trạng này. Ngay cả với chương trình truy tìm và phát hiện ung thư phổi, nhiều nghiên cứu cho thấy không cải thiện về tỉ lệ sống còn một cách đáng kể. Tránh hoặc giới hạn tiếp xúc với tác nhân sinh ung đã được biết (đầu tiên là thuốc lá) là cách tốt nhất ngăn ngừa ung thư phổi.

Ðiều trị ung thư phổi trong tương lai có thể liên quan đến kháng thể - kỹ thuật xạ trị trực tiếp, tức là kháng thể trực tiếp chống lại tế bào ung thư mang phân tử phát tia"radioactive bullets" đến tấn công và phá huỷ tế bào ung thư. Những nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm cách dùng thuốc hay phẫu thuật nhằm giúp điều trị các thể khác nhau của căn bịnh nguy hiểm này.

Tóm lược về ung thư phổi

Ung thư phổi gây chết ở đàn ông và đàn bà nhiều hơn bất kỳ loại ung thư nào khác.

Vì phần lớn ung thư phổi được phát hiện trễ nên chỉ 10% được điều trị tận gốc.

8/10 ung thư phổi liên quan đến thuốc lá.

Ung thư phổi được phân chia thành loại ung thư tế bào nhỏ và tế bào không nhỏ.

Ho dai dẳngvà đàm máu là triệu chứng của ung thư phổi

Ung thư phổi có thể được chẩn đoán qua xét nghiệm đàm, qua nội soi phế quản lấy mẩu thử, dùng kim qua ngực lấy mẩu hoặc cắt mẩu qua phẫu thuật.

Ðiều trị ung thư phổi dựa trên loại, vị trí và kích thước cũng như tuổi và sức khỏe của bênh nhân

(Theo Bác sĩ gia đình)

4.03.2008

Ăn ít muối để cơ thể khỏe mạnh


Muối là yếu tố góp phần dẫn đến huyết áp cao, và quá nhiều muối trong chế độ ăn uống có thể rất nguy hiểm, đặc biệt là đối với những bệnh nhân mắc bệnh tim.

Dưới đây là những gợi ý về cách chuẩn bị bữa ăn chứa ít muối do Viện Quốc gia Hoa Kỳ về Tim, Máu và Phổi (U.S. National Heart, Lung, and Blood Institute) cho hay:

- Tránh cho thêm muối vào món ăn khi bạn đang ăn.

- Giảm lượng muối sử dụng khi nấu ăn. Bạn có thể sử dụng thảo mộc thay thế.

- Không cho muối vào nước nấu cơm hay nấu mì.

- Tránh dùng nước xốt hoặc gia vị đóng gói. Chúng thường chứa nhiều muối.

- Sử dụng thực phẩm tươi nếu có thể. Những thực phẩm đóng gói hoặc qua chế biến thường chứa nhiều muối.

(Theo Healthday)

2.05.2008

Táo ( apple ) và những lợi ích đối với sức khoẻ


1. Ngăn ngừa lão hóa và ung thư

Các nhà khoa học đã so sánh 1500mg vitamin C với 1 quả táo nhỏ, kết quả đáng ngạc nhiên là quả táo và lượng vitamin C này có lượng chất chống ôxy hóa như nhau.

Táo tươi có lượng chất chống ôxy hóa gấp 15 lần so với lượng vitamin C mỗi ngày nên dùng.

Các nghiên cứu trong ống nghiệm cũng chỉ ra rằng táo giúp ngừa sự phát triển của các tế bào ung thư gan và ung thư ruột kết. Táo nguyên vỏ có hiệu quả đặc biệt.

2. Tốt cho ruột và hệ tiêu hoá

Nhà nghiên cứu người Anh Giáo sư Burkitt đã đưa ra kết luận rằng táo giúp ngừa chứng táo bón. Quả và vỏ táo chứa từ 4 - 5gr chất xơ giúp ruột hoạt động tốt.

Táo còn rất tốt cho những người bị bệnh tiêu chảy do trong táo có chất pectin.

3. Giảm bệnh tim mạch

Lượng magiê và kali trong táo giúp điều chỉnh áp suất máu và giữ cho nhịp đập tim ở mức ổn định, chất chống ôxy hoá tự nhiên bảo vệ thành mạch máu ổn định.

Ăn táo trong chế độ ăn hàng ngày giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Các nghiên cứu thấy rằng những phụ nữ Nhật ăn nhiều hoa quả chứa quercetin sẽ ít bị các bệnh tim mạch hơn đồng thời giảm lượng cholesterol xấu.

4. Giảm đột quỵ

Táo là lựa chọn tối ưu giúp ngừa chứng đột quỵ. Các nhà khoa học đã tìm thấy sự liên quan rõ ràng rằng những người ăn táo đều thường ít bị đột quỵ hơn những người không ăn táo.

5. Bảo vệ khớp

Ở những nước có chế độ ăn nhiều rau và hoa quả sẽ rất ít bị viêm khớp. Ở những nước phát triển, các loại đồ đóng hộp và đồ ăn nhanh khiến 70% dân số bị mắc viêm khớp.

Cây táo hấp thu được chất boron từ đất vì thế ăn táo giúp giảm chứng viêm khớp.Tuy nhiên cần ăn 9 quả táo mỗi ngày mới cung cấp đủ lượng boron cần thiết cho cơ thể.

Bạn cũng đừng quá lo lắng vì có thể ăn kết hợp táo với vài thìa bơ lạc hay 1 nắm nho khô cũng đáp ứng đủ lượng boron cho cơ thể.

6. Tốt cho phổi

Phổi bị ảnh hưởng bởi khói thuốc, khói bụi, không khí ô nhiễm và phấn hoa... gây bệnh hen suyễn và các bệnh về phổi.

Để bảo vệ phổi, ngoài việc tập thở sâu mỗi ngày, ăn táo hàng ngày cũng rất tốt cho phổi.

Nghiên cứu tiến hành trong 5 năm với hơn 2.500 nam giới xứ Wales đã rút ra kết luận rằng những người ăn trên 5 quả táo mỗi tuần có thể cung cấp nhiều không khí cho phổi hơn những người không ăn táo.

Các chuyên gia tin tưởng rằng chất chống ôxy hoá trong táo giúp giảm sự phát triển các bệnh ở phổi.

Chọn và bảo quản táo đúng cách: - Chọn những quả táo không bị dập nát, cứng và có màu sắc tươi. Để táo trong túi bóng và cất trong tủ lạnh , vì táo rất dễ hấp thụ các loại mùi khác vì thế nên để táo tránh xa các loại củ nặng mùi như tỏi và hành.

12.25.2007

Nhà Thiếu Ánh Sáng Mặt Trời Nguy Cơ Cao Bị Ung Thư Phổi


Tạp chí y học Journal of Epidemiology and Community Health vừa phổ biến kết quả sưu khảo công phu tại 100 quốc gia, cho thấy rằng người thiếu ra ánh mặt trời, rất dễ bị ung thư phổi.

Sưu khảo chọn mẩu người ở nhiều vĩ đô và cường độ ánh sáng mặt trời khác nhau, tia cực tím B (ultraviolet B, UVB) khác nhau khi ra ánh sáng để tìm tỷ lệ ung thư phổi sai biệt nhau như thế nào tại 111 nước trên thế giới.

Các nhà khoa học chú y đến yếu tố khối lượng mây bao phủ, khói thuốc, và sử dụng những dữ kiện của Tổ Chức Y tế Thế giới nữa để nghiên cứu. Hút thuốc lá nguyên nhân rõ nhứt của ung thư phổi, tỷ lệ từ 75% đến 85% của các trường hợp ung thư phổi.

Nhưng khi ra ánh sáng mặt trời, con người được ánh sáng, đặc biệt là tia cực tím B, UVB, tạo ra sinh tố D cho cơ the giúp cho tế bào đề kháng mầm ung thư. Số lượng UVB trong ánh sáng tăng ở xích đạo. Và tỷ lệ ung thư phổi đối với người ở gần xích đạo.Khối lượng mây càng nhiều và chất thải che khuất ánh sáng trong không khí cũng là những yếu tố làm cho tỷ lệ ung thư phổi tăng.

Đối với phụ nữ ba yếu tố hút thuốc, thiếu ánh sáng mặt trời, và mây bao phủ ảnh hưởng làm cho ung thư phổi nặng hơn.

Phân tích, các nhà sưu khảo thấy tương quan giữa tia UVB và ung thư phổi là một tương quan chứng minh cụ thể được. UVB làm cho ung bướu ngưng phát triển. Dù là hút thuốc lá nguyên do chánh gây ung thư phổi, nhưng UVB giúp cho sư phát triễn ung thư giảm và chậnm lại; đó là kết luận của sưu khảo.

Theo VietBao

12.06.2007

Tiến sĩ Goro nói:"... Ăn nhiều thịt và chất béo là những yếu tố chính có thể gây ra ung thư."


Ngày nay chính phủ (Hoa Kỳ) ban hành đạo luật "Conquest of Cancer" (chinh phục bệnh ung thư), chính thức mở màn cho chiến dịch được gọi là "Cuộc chiến tranh chống lại bệnh ung thư". Tới giờ phút các bạn đọc những dòng này, cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn. Mỗi ngày Viện Ung Thư Quốc Gia chi ra mấy triệu đô la. Chưa kể đến những tổ chức khác như Hội Ung Thư Hoa Kỳ, mỗi ngày tốn hơn triệu đô la cho công trình nghiên cứu chống ung thư.

Nhưng, dù tiêu nhiều tiền như vậy, cuộc chiến chống ung thư không mang lại kết quả mong muốn. Chúng ta không tàn sát kẻ thù; kẻ thù đang tàn sát chúng ta. Tiến sĩ Linus Pauling, người đoạt hai giải Nobel đã tuyên bố: "Tất cả mọi người cần phải biết rằng cuộc chiến chống ung thư là một sự lừa bịp."

Những loại ung thư thông dụng nhất - ung thư phổi, ruột kết, vú, nhiếp hộ tuyến, mật và buồng trứng - là nguyên nhân gây nên đa số những trường hợp tử vong về ung thư. Tỷ lệ tử vong của những chứng ung thư đó vẫn giữ nguyên, hoặc tăng lên, trong 50 năm qua. Và những thống kê cho các loại ung thư ít xảy ra cũng bi quan không kém.

Những cách trị ung thư thường được áp dụng nhất ngày nay là giải phẫu, phóng xạ và hóa dược trị liệu. Cách chữa nào cũng có tính cách xâm lấn vào cơ thể bệnh nhân. Cách chữa nào cũng có những tác dụng bên lề tai hại. Cách chữa nào cũng chỉ trị những triệu chứng chứ không đi vào căn nguyên của bệnh. Và tỷ lệ thành công thì rõ ràng là thấp..."

"... Ngày nay, chữa trị ung thư là một doanh nghiệp khổng lồ. Cứ mỗi 30 giây lại có thêm một người Hoa Kỳ bị ung thư. Trung bình một bệnh nhân bỏ ra trên 25 ngàn đô la để cố gắng chữa chạy. Nhưng, đáng buồn thay, đó chỉ là phí tiền vô ích. Vì mỗi 55 giây lại có một người Mỹ chết vì ung thư..."

"... Các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư muốn biết lối sống nào đích thực gây nên những tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao. Trong tạp chí "Advances in Cancer Reseach", họ kết luận như sau:

"... Chúng ta có rất nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng, trong những yếu tố tạo nên rủi ro bị ung thư... không yếu tố nào đáng kể hơn lối ăn và sự dinh dưỡng."

Trong khi thực hiện những cuộc điều trần để tìm hiểu những hậu quả về mặt sức khỏe của lối ăn uống của người Mỹ, Ủy ban Thượng viện kêu gọi đến một chuyên viên, tiến sĩ Gio B. Goro, phó giám đốc Sở Phòng Ngừa Ung Thư tại Viện Ung Thư Quốc Gia. Ông này nói:

"Khoa dinh dưỡng tỏ ra là một ngành rất hứa hẹn trong vấn đề phòng ngừa và kiểm soát bệnh ung thư và nhiều bệnh khác, và trong vấn đề bảo đảm, duy trì sức khỏe của con người."

Lẽ tất nhiên, Thượng viện muốn biết đích xác những ảnh hưởng nào của lối ăn uống sẽ dễ gây ra ung thư. Đa số chúng ta nghĩ đến những hóa chất thêm vào trong thực phẩm như loại để giữ đồ ăn lâu hư, mầu nhân tạo và loại để tạo mùi vị. Nhưng, dù những hóa chất đó có tác hại thật, chúng vẫn không phải là thủ phạm chính. Tiến sĩ Goro nói:

"... Ăn nhiều thịt và chất béo là những yếu tố chính có thể gây ra ung thư."

Các ngành sản xuất thịt, sữa, và trứng vốn không vui với kết quả nói rằng cholesterol và chất béo saturated (bảo hòa) gây ra bệnh tim. Và bây giờ họ lại càng không vui khi được biết rằng thịt và chất béo dính líu đến bệnh ung thư.

Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission - FTC) muốn nghe quan điểm của một chuyên gia độc lập để giúp họ xác định có phải là những thức ăn gây nên bệnh tim cũng có thể gây nên bệnh ung thư hay không. Họ mời một chuyên gia về khoa dinh dưỡng tại đại học Harvard ra điều trần, đó là tiến sĩ Mark Hegstead. Ông này nói:

"Tôi nghĩ rằng rõ ràng lối ăn uống của người Mỹ là một nguyên nhân gây bệnh đau tim. Và tôi nghĩ rằng cũng lối ăn đó là nguyên nhân gây nên nhiều loại ung thư: ung thư vú, ung thư ruột kết, và những ung thư khác..."

Không chỉ là bệnh ung thư mà các căn bịnh khác như cao máu, tiểu đường, tim mạch, đột quỵ, béo phì cũng được đề cập đến trong sách.

Các nhà phê bình, điểm sách đã đánh giá rất cao cuốn sách Diet for A New Ameria và trên thị trường, số sách cả triệu cuốn được tái bản đi tái bản lại suốt trong 20 năm qua (1987 - 2007) trong hạng mục "best seller", chứng minh những phê bình, khen tặng trên là sự thật....

Tỉ như vấn đề ăn gạo lứt muối mè của Thánh y Ohsawa, lấy từ tinh hoa y học cổ truyền Đông phương, xưa nay không thiếu người phân vân, bán tín bán nghi. Trong cao trào đang lên mạnh tại Hoa Kỳ hiện nay, việc ăn gạo lứt và các loại ngũ cốc nguyên hạt (whole grains) là cách được chọn làm mẫu mực.

Nên nhớ, người Mỹ không dễ gì tin vào những luận cứ vu vơ mà họ chỉ tin vào kết quả nghiên cứu khoa học, có cơ sở chứng minh hẳn hoi. Và đây là kết quả của việc ăn gạo lứt và ngũ cốc nguyên hạt (whole grians) khiến người Mỹ, nhất là giới thượng lưu, đang thi nhau áp dụng:

"Gạo trắng hay bột mì trắng là vì người ta đã bỏ đi phần cám của nó. Phần cám mầu nâu ấy chứa toàn là những chất bổ dưỡng và không có hại, thứ hại mà ngày nay ai bị bệnh tiểu đường vẫn sợ nơm nớp. Đó là "tinh bột" tạo đường và thường thì Tây y bảo phải tiết giảm việc ăn tinh bột.

Phải mất nhiều chục năm trời các nhà nghiên cứu độc lập Hoa Kỳ mới có cơ hội hoàn thành những nghiên cứu nghiêm chỉnh và có giá trị. Một trong những bản nghiên cứu thuộc lọai này được công bố trên tạp chí Journal of The American Dietetic Asscociation vào năm 2001, kéo theo phong trào bỏ ăn bánh mì trắng và thay vào đó là bánh mì làm bằng bột nguyên hạt (whole grain) tương tự với gạo lứt. Nguyên do? Bởi vì trong bản báo cáo này, các nhà nghiên cứu đã chứng minh ăn gạo lứt, bột nguyên hạt whole grains ngăn ngừa được ung thư.

Một con số hết thuyết phục: trong tất cả 45 cuộc nghiên cứu đề tài liên quan, có tới 43 nghiên cứu công nhận gạo lứt và bột nguyên hạt whole grains giúp ngăn ngừa ung thư.

Khi người ta làm trắng gạo, bỏ cám thì tỉ lệ phần trăm các chất bổ bị mất đi là: Protein 25%, Chất xơ (Fiber): 95%, Calcium: 56%, Đồng (Copper): 62%, Sắt (Iron): 84%, Manganese: 82%, Phosphorus: 69%, Potassium (Kali): 74%, Selenium: 52%, Kẽm (Zinc): 76%, VitaminB1: 73%, Vitamin B2: 81%, Vitamin B5: 56%, Vitamin B6: 87%, Folate: 59%, Vitamin E: 95%."

Bột mì trắng, gạo trắng và các sản phẩm ngũ cốc tinh chế khác được hấp thu nhanh vào dòng máu, gây ra sự dao động mức đường trong máu. Chất xơ có trong ngũ cốc nguyên hạt làm chậm những dao động đó, giúp làm giảm thấp các mức cholesterol, giữ cho đường tiêu hóa lành mạnh, và còn tạo ra nhiều lợi ích khác nữa. Ngoài ra, ngũ cốc nguyên hạt cũng cung cấp những chất bổ dưỡng quan trọng, bao gồm các vitamin B, vitamin E và nhiều chất cải thiện sức khỏe khác..."

9.29.2007

Móng tay nói lên sức khỏe?

Bạn có biết những thay đổi trên móng tay có thể là dấu hiệu về tình trạng sức khỏe đang gặp vấn đề không? Khi bệnh xuất hiện có thể gây nên những thay đổi ở móng tay. Bác sĩ có thể dựa trên đó để chuẩn đoán bệnh.

Dưới đây là một vài dấu hiệu cần lưu ý:

Hiện tượng Beau’s line: là hiện tượng một vết lõm chạy ngang móng tay. Vết lõm xuất hiện khi mắc phải bệnh tim, sởi, viêm phổi.


- Móng tay cong lên như hình chiếc muỗng: Móng bị mềm và cong lên đến mức bạn có thể đựng được một giọt nước. Đó là biểu hiện thiếu chất sắt.

- Móng tay bị mềm: móng tay có thể bị tách rời ra khỏi ngón tay. Vấn đề này liên quan đến các bệnh: vẩy nến, phản ứng lại với một loại thuốc nào đó, bị thương, bị nấm hoặc viêm da do sử dụng hóa chất. Đôi khi cũng do tuyến giáp kém hoạt động, thiếu sắt hoặc bệnh giang mai.

- Hiện tượng Terry’s nails: móng màu trắng nhưng phía trên màu hồng đậm đến nâu. Đó là dấu hiệu của bệnh xơ gan, suy tim, bệnh tiểu đường, ung thư hoặc do tuổi già.


- Hiện tượng Half-and-Half (Lindsay’s nails): ngón tay có nửa phần trên màu trắng và nửa phần dưới màu hồng. Hiện tượng này xảy ra ở một số ít người và nó là dấu hiệu của bệnh về cật.



- Hiện tượng Clubbing: đầu ngón tay to hơn và bị móng tay cong lại bao quanh. Hiện tượng này do thiếu ôxy làm cho các mô liên kết mở rộng hoặc bạn đang mắc bệnh phổi. Nguy cơ mắc bệnh phổi lên đến 80%.